Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
- 
                                
                                
VŨ TRỤ QUAN Có thể nói Vũ Trụ Quan Cao Ðài bao hàm hai khái niệm quan trọng là: -Cơ nguyên biến ...
 - 
                                
                                
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 11-8 Bính Dần (14-9-1986)
 - 
                                
                                
. . .Trước kia ta nhìn mẹ nhưng lại chú tâm vào việc khác ngoài đời. Nay thì khi làm ...
 - 
                                
                                
Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo đã diễn ra tại Thiền Lâm Tự - Gò Kén Tây Ninh, sau khi ...
 - 
                                
                                
"Nếu còn phân biệt giữa khoa học và tôn giáo, giữa đạo và đời, là thế nhơn hòa chưa tròn, ...
 - 
                                
                                
1. VŨ TRỤ 宇 宙 – THIÊN ĐỊA 天 地 001. Thiên địa chi gian, kỳ do thác thược hồ? Hư ...
 - 
                                
                                
Thiện thư 善書 hay khuyến thiện thư 勸善書 (books of edification; morality tracts) là một đặc chủng trong thư tịch ...
 - 
                                
                                
Trước khi Lão muốn chỉ đường vẽ lối cho các phận sự Ngọc Minh Đài, Lão muốn nói với toàn ...
 - 
                                
                                
Tưởng niệm ngày qui tiên của Đạo Trưởng Huệ Chơn, ngày 27 tháng 3 Ất Mùi (15/5/2015) mời quí đạo ...
 - 
                                Đắc nhất /
Nhân ngày mùng chín tháng Giêng là Khánh Đản của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Thầy, là ...
 - 
                                
                                
DẩN NHậP Hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là : " Trần gian vạn khổ còn kia, Lòng người Bồ ...
 - 
                                
                                
Tâm rộng lớn trùm bao trời đất, Đức tạo sanh muôn vật tinh cầu. Buông ra trải khắp đâu đâu, Gom về còn ...
 
Thiện Chí
NHẬT KÝ CUỐI TUẦN 15 -11-202221

.jpg)
 
THÁNH NGÔN
" Nền Đạo lập nên là nhờ có lòng đạo đức và tánh khiêm cung của mỗi môn đệ của Đức Từ Bi. Nếu đã vào nẻo đạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Đạo chẳng qua là một trường ngôn luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng đáng đặng?” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I, 29.5.27)
* * *
“Này chư đệ muội! Vì nghe tiếng rên la thảm thiết kêu cứu của những vong hồn nơi âm cảnh, những âm hồn ấy cũng đáng thương, khi còn tại thế tu hành nhưng lầm đường lạc lối và vô tình gây nhiều nghiệp quả, động lòng trước lời khẩn cầu ấy, Đức Quán Âm Bồ Tát cùng Quán Pháp Chơn Tiên đang tuần du nơi A Tì Địa Ngục, với đại nguyện dụng thần thông hoán cải những vong hồn tự giác ngộ, và mong chờ Đức Thượng Đế trong kỳ Đại Ân Xá chế giảm tội sớm được luân hồi chuyển kiếp, thoát cảnh ngục hình. Tiên huynh nói cho chư đệ muội biết để chư đệ muội quyết tâm tu hành và phải có đại chí đại nguyện cứu vớt chúng sanh trong thời mạt hạ.”
(Đức Quảng Đức Chơn Tiên, CQPTGLĐĐ, 16.5.1995)
CÂU CHUYỆN
Tất Đạt là thái tử dòng dõi con vua Thệ Phạn, có người em cũng là thái tử trẻ, hai anh em tuy cùng dòng dõi quý tôc, nhưng tư chất khác nhau. Tất Đạt có thiên hướng trở thành một sa môn, còn người em thích ngành cung kiếm. Một hôm, tình cờ Tất Đạt bắt được con hạt bị bắn rơi trước mặt, một chân hạt có vết thương rĩ máu, Tất Đạt động lòng trắc ẩn, cứu chữa cho con chim và giữ lại săn sóc. Người em thấy con vật do mình săn được đang ở trong tay anh mình, không hài lòng và đòi Tất Đạt trả lại. Hai anh em bắt đầu tranh cãi, người em lý luận rất chặc chẻ, bằng chứng là trên tay còn cầm cung tên vừa đi săn về. Người anh cho rằng , con hạt bị thương từ trên không sa xuống trước mặt mình, và đã ra tay cứu chửa, thì “con hạt là của anh”. Câu chuyện đến tai các quan trong triều, đem ra phân xử. Bằng chứng sở hữu con hạt bên nào cũng có lý. Nhưng giữa các quan, nhiều người đều cho rằng người em có lý với các chứng cứ cụ thể ; mà nếu ủng hộ chú em thì con vật trước sau gì cũng sẽ bị cho vào chảo nước sôi. Mọi người hy vọng đức vua với quyền uy và đức độ của ngài, sẽ có giải pháp tình lý ven toàn.
Cuối cùng vua cha cho phép sa môn Tất Đạt được tiếp tuc giữ nuôi con hạt do cảm động tình thương của Tất Đạt dành cho sự sống của con chim vô tội.
Nhà vua đã dạy cho hai thái tử bài học TÌNH vị tha cao quý hơn LÝ vị kỷ.
(Phỏng theo truyện “Đường xưa mây trắng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
.jpg)
Sa môn có nghĩa là chỉ tất cả những vị tăng tu hành theo đạo Phật, còn có nghĩa là người nghèo (Bần giả), người chuyên cần (Cần giả), người đoạn dứt (Tức giả).19
NHÂN VẬT
BERTRAND RUSSELL
Bertrand Arthur William Russell, Bá tước Russell III, OM, FRS (18 tháng 5 năm 1872 – 2 tháng 2 năm 1970), là một triết gia, nhà lôgic học, nhà toán học người Anh của thế kỷ 20. Là một tác giả có nhiều tác phẩm, ông còn là người mang triết học đến với đại chúng và là một nhà bình luận đối với nhiều chủ đề đa dạng, từ các vấn đề rất nghiêm túc cho đến những điều trần tục. Nối tiếp truyền thống gia đình trong lĩnh vực chính trị, ông là một người theo chủ nghĩa tự do với vị thế nổi bật, ông còn là một người dân chủ xã hội (socialist) và người hoạt động chống chiến tranh trong phần lớn cuộc đời dài của mình. Hàng triệu người coi ông như là một nhà tiên tri của cuộc sống sáng tạo và duy lý; đồng thời, quan điểm của ông về nhiều chủ đề đã gây nên rất nhiều tranh cãi.
.jpg)
 
Bertrand Russell. Oil painting by Roger Fry, 1923.
Russell sinh ra vào thời đỉnh cao của nền kinh tế và uy thế chính trị của nước Anh. Sau đó gần một thế kỷ, ông qua đời vì bệnh cúm, khi Đế quốc Anh đã biến mất, sức mạnh của nó đã bị hao mòn bởi hai cuộc chiến tranh thế giới. Là một trong những trí thức nổi tiếng nhất của thế giới, tiếng nói của Russel mang một quyền lực đạo đức, thậm chí cả khi ông đã vào tuổi 90. Trong các hoạt động chính trị của ông, Russell là một người kêu gọi đầy nhiệt huyết cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân và một người phê phán mạnh mẽ chế độ toàn trị tại Liên bang Xô viết và sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.[1]
Năm 1950, Russell được tặng Giải Nobel Văn học, "để ghi nhận các tác phẩm đầy ý nghĩa mà trong đó ông đã đề cao các tư tưởng nhân đạo và tự do về tư tưởng".
(Wikipedia)
 

