

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Chỉ 12 năm sau ngày Mẹ Maria hiện ra tại La Salette(1) với những lời báo động nghiêm khắc và ...
-
Nhiều người cho rằng Thiền Tông khác với Tịnh Độ Tông , vì một bên chú trọng vào tự lực, ...
-
Từ thuở hoang sơ của địa cầu, loài người đã trải qua nhiều nỗi hãi hùng do biến động của ...
-
Các trận đấu đã tạm thời chấm dứt, nhưng họ phải luôn luôn chiến đấu với chính mình để tự ...
-
Vì "mới ra lò" sau năm 2000 nên tôi chắc là ít người đã biết đến SQ và SQ cũng ...
-
Nếu phải tìm 1 từ nào có thể diễn tả tâm trạng chung của nhân loại lúc nầy thì từ ...
-
Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới trong những thập niên gần đây được tổ chức khoảng năm năm một lần, ...
-
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy tại Cơ Quan PTGLĐĐ vào ngày CQPTGL vào Giao Thừa Năm Đinh ...
-
Ý Nghĩa Vu Lan Trần Ngọc Tâm Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, là Lễ Trung Ngươn Địa Quan xá tội, ...
-
Giá trị nhân văn của bức họa"Tam thánh ký hòa ước" Khách đến viếng Đền thánh Tòa thánh Tây Ninh hoặc ...
-
Vào đêm lễ Phục Sinh năm nay, 07-4-2012, khi Đức Giáo hoàng Benedict XVI thắp cây nến đầu tiên tại ...
-
hưa tiến sĩ Adler, Người ta luôn luôn viện dẫn kinh nghiệm, lý trí hoặc đức tin để hậu thuẫn cho ...
Thiện Chí
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 27/06/2025
KẾT TẬP CÁC BÀI THHUYẾT ĐẠO & BÀI GIẢNG của ĐH THIÊN CHÍ NVT

KẾT TẬP BÀI THUYẾT ĐẠO & BÀI GIẢNG GIÁO LÝ CAO ĐÀI CĂN BẢN
CHƯƠNG THỨ NHẤTI . NGUYÊN LÝ NHẤT NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ
III.NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAMKỲ PHỔ ĐỘ.
TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHẤT
B. PHỤNG HÀNH THIÊN ĐẠO
@@@
I. NGUYÊN LÝ NHẤT NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ :
Nguyên lý nhất nguyên của vũ trụ bao gồm : “Cơ chế biến sanh vũ trụ và qui luật tiến hóa tâm linh của vạn vật”.
- Cơ chế biến sanh vũ trụ được thực hiện trong không gian Vô Cực và bằng động năng Thái Cực mà Thái Cực là một khối Đại Linh Quang kết thành do sự ngưng tụ Lý và Khí trong vô cực. Trong Kinh “Đại Thừa Chơn Giáo”, Đức Cao Đài dạy rằng :
“ Trước khi chưa định ngôi Thái Cực thì trong khoảng không gian (ấy) còn đang mịt mịt mờ mờ với khí Hồng Mông…..
“ Không gian ấy là Vô Cực. Trong Vô Cực ấy lại có một cái Lý thiên nhiên tuyệt diệu tuyệt huyền, rồi lại có thêm một nguyên khí tự nhiên nữa. Lý với Khí ấy tức là âm với Dương trong buổi Hồng NguyênThứ Ba thời đại. Lý Khí ấy lần lần ngưng kết nhau mà đông tụ lâu đời nhiều kiếp mới thành ra một khối Đại Linh Quang rất đủ đầy các sự tốt đẹp.
….Ay chính là ngôi Chúa tể Càn Khôn vũ trụ biến hóa ra vậy” Đại Thừa Chơn Giáo, Trước tiết tàng thơ, tr.175)
Như thế, ngay ở điểm khởi đầu của cơ nguyên hóa sanh vũ trụ, ta đã thấy hình thành một bộ máy Âm Dương – Thái Cực. Chính bộ máy này là Lý nhất nguyên bất dịch từ cuộc vận hành vũ trụ, hóa sanh muôn loài đến sự thúc đẩy vạn ]vật tiến hóa.
Đại Thừa Chơn Giáo viết tiếp : “Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, biến thiên vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn cả quyền hành thống chưởng cả Càn Khôn vũ trụ và lấy cơ thể Âm Dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gồm tụ cái khí Hư Vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật “ Đại Thừa Chơn Giáo, tr.176)
Câu “ lấy cơ thể Âm Dương…làm máy động tịnh” giúp ta có khái niệm về cơ chế biến sanh vũ trụ bao gồm Thái Cực là chức năng điều hòa : Động tịnh là vận động, khí âm khí dương là thể chất. Nhưng nhìn tổng quát hệ thống ấy cho ta một quan niệm rất quan trọng là quan niệm phóng phát ( émanation). Phóng phát có nghĩa là tạo vật được hình thành bằng chính Bản Thể của Tạo Hóa mà tác năng không phải là một Hóa Công tách biệt nhưng là Thái Cực tiềm tàng bàng bạc. Thuyết “phóng phát” được minh chứng bằng khái niệm Đại Linh Quang – Tiểu linh quang của Cao Đài Giáo : Đức Chí Tôn nói: “ Điểm Linh Quang là gì ? – Là một cái yến sáng mà thôi. Thái Cực là một “ khối Đại Linh Quang” chia ra, ban cho mỗi người một “điểm tiểu linh quang” (Đại Thừa Chơn Giáo, tr.19) “Chia ra, ban cho “tức là phóng phát để sinh thành theo nguyên lý nhất thể.
Nhưng cơ chế sinh thành diễn ra theo một qui trình rõ rệt, có đi có về theo một vòng tròn để cho cuộc sanh hóa của vũ trụ không ngừng nghỉ mà vạn vật vẫn lần lượt đạt thành cứu cánh “ Đại Linh Quang”
Đại Thừa Chơn Giáo tr.10 viết :”Khí Âm Dương bắt đầu sinh hóa ra muôn loài vạn vật, muôn loài vạn vật cứ hóa sanh mãi mãi đời nọ sang đời kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Đó là một sanh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật, nhưng vạn vật cũng phải quay đầu về Một là vì “Nhất bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổ”.
….” Cơ siêu phàm nhập Thánh là lẽ tự nhiên pháp nhiệm nó luôn vận hành châu lưu trong Càn Khôn thế giới mà dưỡng dục muôn loài, bảo tồn vạn vật”
Vậy nguyên tắc thứ hai của Cơ chế biến sanh vũ trụ là “châu lưu” theo vòng tròn tức là có chu kỳ, có phản nguyên, mà phản nguyên đây là “siêu phàm nhập Thánh” tức là tiến hóa mà tiến hóa “quay đầu về Một” nghĩa là khởi sanh từ Thái Cực mà thành toàn trong Đại Linh Quang. Thái Cực chỉ động năng, Đại Linh Quang chỉ Bản Thể nhưng cả hai vốn là Một, là nguyên thỉ mà cũng là kết chung.
Tóm lại cơ chế biến sanh vũ trụ vận hành theo qui luật phóng phát và châu lưu tạo thành nguyên lý nhất nguyên của vũ trụ vậy.
B. QUI LUẬT TIẾN HÓA TÂM LINH :
Nguyên lý nhất nguyên nói trên còn được thể hiện qua luật Tiến hóa tâm linh trong v vũ trụ. Cơ chế biến sanh vũ trụ được khởi đầu bằng Thái Cực thì cuộc tiến hóa tâm linh khởi đầu từ Chơn Thần. Đức Chí Tôn gọi sự biến sanh vũ trụ là “Khai Thiên Địa” và cuộc tiến hóa tâm linh là “Sanh Tiên Phật”. Ngài nói :
“ Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một Chơn Thần Thầy mà biến Càn Khôn thế giới và cả nhân loại.
“….Thầy khai Bát Quái mà tác thành càn Khôn thế giới nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra càn khôn vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành cái Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy”.
Vậy trong vũ trụ tâm linh có cuộc tiến hóa là phát triển Chơn Thần mà Thượng Đế đã phóng phát từ các vật hạ đẳng đến con người rồi đến Thần Thánh Tiên Phật và sau cùng là hiệp nhất với Thượng Đế. Tức là :”Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Các con là chư Phật, chư Phật là các con… Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy….Các con là Thầy, Thầy là các con”[1]. Qua đó ta thấy được nguyên lý nhất nguyên trong cuộc tiến hóa tâm linh mà ứng dụng của nó là Đạo phục hồi Chơn Thần, phát triển Chơn Thần đã thọ bẩm từ nơi Thượng Đế để sau cùng đồng nhất hiệp nhất làm một với Thượng Đế. Do đó có thể nói đặc trưng của “ Tam Kỳ Phổ Độ” là nhấn mạnh điều kiện “hoàn nguyên Chơn Thần” để giải thoát và tiến hóa. Đức Chí Tôn đã xác minh rằng :”Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập “Tam Kỳ Phổ Độ” này duy Thầy cho “Thần” hiệp “Tinh Khí” đặng hiệp đủ “Tam bửu” là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh… Thầy đến đặng hoàn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo” (Thánh ngôn Hiệp Tuyển, Tây Ninh, 1973, Q.1,tr.12)
Cho nên : “Bậc chơn tu tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, trổ bông rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số. Vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoái. Ay là Đạo” (Thánh ngôn hiệp tuyển, sđd, tr.31)
Tóm lại nguyên lý nhất nguyên của vũ trụ là lý Đạo thống nhất tất cả mọi vận động biến sanh, dưỡng dục – tiến hóa trong một qui luật duy nhất và dưới tác năng của một chủ lực Tuyệt đối là Thượng Đế. Đức Chí Tôn đã nêu rõ nguyên lý ấy như sau :
“Trong vũ trụ càn khôn, lấy cái Lý Thái Cực làm chủ tể của muôn triệu ức sanh linh và chưởng quản vật chất hữu hình. Trong Trời đất có cái lý nhất định thanh quang là Thái Cực làm trung tâm điểm cho vũ trụ Càn Khôn, muôn loài vạn vật. Cái lý Độc nhất toàn tri toàn năng biến hóa vô cùng tận, dưỡng dục cả sanh linh, bảo tồn vạn loại. Lý độc nhất bao quát thần thông quây chuyển bánh xe vô hình mà làm nấc thang tiến hóa chung cho tinh thần, vật chất, mở mang cái trí tuệ cho mọi người noi theo thiên lý vận hành mà tăng tiến mãi lên cho đến kỳ cùng mục đích là nơi nhất định…” (Đại Thừa Chơn Giáo, Trước tiết tàng thơ, tr. 242)
Phân tách ta thấy :
- Lý Thái Cực chủ tể là : Cao Đài Tiên Ong
- Quay chuyển bánh xe vô hình mà làm nấc thang tiến hóa chung cho tinh thần, vật chất là Đại Bồ Tát.
- Mở mang cái trí huệ cho mọi người là : Ma Ha Tát.
“Cao Đài Tiên Ong Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” tức là Đức Thượng Đế thể hiện nguyên lý nhất nguyên cứu độ toàn thể nhân loại trong thời kỳ này lập thành “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” vậy.
II .NGUYÊN LÝ ĐẮC NHẤT.
Trong khi đi tìm một giáo lý thuần nhất về vũ trụ và con người qua các tôn giáo chúng ta đã được thuyết minh về phạm trù đại vũ trụ và phạm trù tiểu vũ trụ. Cái trước là một thực tại nhất thể bao dung cả vật chất lẫn tâm linh trong đó mọi biến hóa sanh thành của vạn vật đều được qui định bất biến bởi một bản thể duy nhất đồng nhất, một động lực duy nhất tuyệt đối và một qui trình nhất định. Cái sau là thực tại đồng nhất với cái trước đang vận động trong một qui phạm giới hạn nhưng đặc điểm của nó là vẫn góp phần vào cái trước một cách tự nhiên vừa có khả năng phát triển đến cũng cực một khi đạt đến ý thức tự chủ của một tiểu vũ trụ.
Cái ý thức tự chủ đó là sự “nhất quán” được đạo lý trong vũ trụ vạn vật. Cao Đài gọi là Đắc Nhất. Đắc Nhất là đứng ở vị trí của chính Trung và chấp hành được Quyền Pháp.
1. Có Đắc Nhất, mọi hành động của con người mới mang được tầm kích vũ trụ, mới thể hiện được tính chất nhất thể với Trời đất. Đức Chí Tôn từng phán :
Càn Khôn trẻ muốn chung cư thất,
Thiên Địa con toan động tác thành;
Ngưỡng cửa viên dung là chữ Nhất,
Không tìm sao thấy ở hình danh.
(Thánh giáo sưu tập 1971, tr.206)
Ngài dạy tiếp :
“ Các con ơi ! Sự Đắc Nhất đối với người tu theo Đại Đạo của Thầy là một then chốt quan trọng ở mục tiêu, vì mục tiêu là điểm rốt ráo. Nếu các con không nhìn nhận và nắm được lẽ Một ấy, cứ quanh quẩn bên ngoài không bao giờ đến chỗ. Nếu không được Một chẳng những con quanh quẩn bên ngoài vòng đạo lý, mà phải chịu trong sự vô minh….(Thánh giáo sưu tập, 70-71, tr.206)
3. Muốn ở trong vòng Đạo lý hay Đắc Nhất, con người phải đứng ở vị trí chính trung. Theo Đại Thừa Chơn Giáo :”Trong trời đất có cái “lý nhất định” thanh quang là Thái Cực, làm “Trung tâm điểm “cho vũ trụ càn khôn muôn loài vạn vật còn đối với nhơn loại, cái “tấm lòng” lại là trung tâm của con người nó làm chủ cho nhơn thân rất mầu nhiệm thông linh làm cho người được an vui trên con đường tiến hóa “ Đại Thừa Chơn Giáo, tr.26,37)
Vậy “chấp trung” là vận dụng cái Lý Thái Cực tại tâm mình để tiến hóa, nhưng nó lại có ý nghĩa “ Đắc Nhất” vì con người đã thoát khỏi lối sống theo “lẽ tự nhiên tầm thường” mà sống hòa hợp với “lý thiên nhiên” của Trời đất. Nghĩa là cái Trung của người đã qui chiếu vào cái Trung của Trời. Đó là “Đắc Nhất Trung trực tấn Cao Đài : “Thiên Nhơn chánh vị hòa hài, Vạn đồ cổ vãng kim lai thủ thành”[2] . Đức Chí Tôn đã khai minh cho chúng ta rằng sự hòa hợp đó là thuận tùng thiên lý, là noi theo Đại Đạo. Ngài dạy :
“Các con hay nói chung là nhân loại, những hạt giống linh căn được chọn gieo vào vũ trụ, được ban phát quyền Tạo Hóa để lập thành cuộc đời ngự trị cõi thế gian mà các con gọi là Đời, nguyên nhân là Lý, là Đại Đạo, là Thầy, là Cha chung của vạn loại. Các con đã sanh trong Đại Đạo hãy noi theo Đại Đạo mà thành về cõi Thượng Thiên Vô Cực (Thánh giáo sưu tập 68,tr.7)
Vậy lẽ Trung nhất là nắm được thiên ý ra đi mà hội ý được cơ nguyên trở về, nhất quán được hai chiều mà lập thành Trung Đạo. Đó là nói về đường lối, còn tính chất Đắc Nhất trong sự thực hành là Hòa và vô chấp, vô phân biệt. Trung Hòa là thông suốt rằng vạn sự vạn vật chỉ có một lý và dùng một lý để điều hành vạn sự vạn vật. Trung Hòa là ưng thuận với hết thảy mọi điều mà không vướng mắc vào điều nào, luôn luôn chuyên nhất theo một đường lối đạo lý không bao giờ thiên lệch. Đức Chí Tôn dạy rằng :
Thầy chỉ sơ con đường “Trung Đạo”
Đạo Trung Hòa thánh giáo phát sinh;
Trung là nguồn cội nhơn sanh,
Không chao, không đảo, chung quanh qui về.
(Đại Thừa Chơn Giáo, tr.52)
Chung quanh đều quay về khi nào tâm ta tuyệt đối không còn câu chấp, không còn phân biệt, nghĩa là ta và vạn sự vạn vật, thiên thượng thiên hạ cùng thống nhất nơi điểm “duy tinh duy nhất”. Đó là :
“ Quân bình tâm vật kỷ cương,
Thần hình cu (câu) diệu tứ phương cộng đồng”.[3]
Nên Đức Chí Tôn đã nhấn mạnh rằng :”Đắc Nhất không có nghĩa là con chỉ tôn thờ một tôn giáo, một lý tưởng cao đẹp nào. Đắc Nhất không có nghĩa là con chỉ giữ một nhiệm vụ nào làm cho đến ngày cởi bỏ xác phàm, điều ngược lại, như lời của Đức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ :
“ Đại Đạo vận hành trong lẽ một,
Một mà tất cả phải làm sao ?
***
Làm sao từ huệ được viên dung,
Duy ngã độc tôn biết chỗ dùng
Thiên thượng bao trùm ơn đức cả,
Nhơn gian nhuần gội nghĩa tình chung.
***
Chi ly vì bởi lòng phân biệt,
Hòa hợp nhờ chung ý hão phùng;
Biết Đạo, biết mình tua biết phận,
Đại Thừa giục vó đến đường Trung (Trung Đạo)
(Đàn số 2/Kỷ Mùi, 11.2.79)
Quyền pháp nói chung “là cơ và lý, là phương định đưa Tuyệt đối vào sở vật thực tại tương đối, chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt”. Như thế quyền pháp là một thần lực có tác năng hai chiều nhưng chỉ nhằm có một cứu cánh, chiều thứ nhất là chiều phóng phát, chiều thứ hai là chiều hoàn nguyên mà hệ quả thống nhất là hiện tượng thăng hoa về bản thể.
- Trong sở vật thực tại vũ trụ “điểm quyền pháp được chứa đựng là ngôi Thái Cực, là Thầy, là Đạo chuyển cơ sanh hóa vạn vật vũ trụ là động năng thúc đẩy tạo thành Thánh Đức sau Hội Long Hoa”.
- Trong sở vật thực tại của con người “điểm quyền pháp là linh hồn. Nhờ đó mà sanh ra, trưởng thành và có thể tiến hóa đến mức đổi phàm thành Thánh, thay tục hóa Tiên được”.
- Trong sở vật thực tại của các tôn giáo “Quyền pháp này thúc đẩy các tôn giáo kết thành thực thể “Đạo cứu thế” trong Tam Kỳ Phổ Độ.”
Nếu chúng ta nhất quán ba thực tại nói trên thành một hệ thống của cơ Phổ độ ngày nay thì ta có một phạm trù Đại Đạo, trong điểm quyền pháp nơi con người đã trở nên một sứ mạng. Đức Giáo Tông đã xác minh sứ mạng ấy bằng câu : “ Con người nắm được quyền pháp mới chuyển đưa vật loại vào Thiên lý và chuyển Thiên Lý vào vật loại”.
Thế nên Đức Giáo Tông đã thúc đẩy rằng “ Muốn được vậy, chư đệ muội (người sứ mạng) phải làm sao, làm thế nào để phát huy quyền pháp được đặt để. Từ xưa các tôn giáo được tạo lên để giải quyết tâm linh, nhưng Tam Kỳ Phổ Độ Thầy phải trao cho chư hiền, cho dân tộc này một quyền pháp Đạo để lập thành quyền pháp Đạo thực thể thuần chánh để cứu thế”.[4]
Thật vậy, thực hành quyền pháp là thể hiện thực chất của một thực tại chịu tác động của nguyên lý nhất nguyên vũ trụ và đắc nhất vơi Thiên cơ. Nói đến quyền pháp nơi con người là nói đến một thực tại sinh động đang tiếp nhận một động năng là “Pháp” đồng thời phát ra một tác năng là “Quyền”, chứ không phải chỉ là một thực tại ở trạng thái bản thể linh quang. Quyền pháp ở đây đã có tính cách chủ tể của một tiểu vũ trụ.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đã giải rõ thêm về quyền pháp của con người sứ mạng như sau : “ Quyền là hình thức thể hiện cái pháp trước đối tượng, Pháp là thể hiện trước bản thân. Quyền pháp tương đồng tác động con người và vạn thể, tha nhân và bản ngã. Có quyền không có pháp không đưa con người đi về đâu : trái lại sẵn sàng xô ngã con người vào lạc lầm u tối. Có pháp ắt sẽ có quyền. Quyền pháp là khả năng giáo hóa ứng tiếp với chủ tể Đại vũ trụ.[5]
Tóm lại “ Ban trao Quyền pháp” và “thi hành quyền pháp” là một đặc trưng của Tam Kỳ Phổ Độ thể hiện giáo lý thuần nhất của Đại Đạo một cách thực tiễn trên căn bản “Thiên Địa vạn vật nhất thể” và “ Thiên nhơn hiệp nhất”
Đó là “ Thử sứ mạng đương sanh hoằng giáo,
Thi Đại Thừa Thiên Đạo tiến tu.
Kỳ khai nhất bổn vạn thù,
Vạn thù qui nhất công phu siêu phàm”
III. NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔĐỘ.
Hội ý qui luật “Châu [chu] nhi phục thỉ”(周而复始)của cơ chế sinh thành trong vũ trụ qui luận “huờn nguyên chơn thần” của cuộc tiến hóa tâm linh cùng với phương định “chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt” của Quyền pháp “ chúng ta có nguyên lý Đại Thừa trong Đạo pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nguyên lý Đại Thừa được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thực hiện qua tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” trên phương diện cương lĩnh của giáo thuyết và qua sứ mạng phụng hành Thiên Đạo cho công cuộc giải thoát phổ độ nhân sinh.
1. “Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhất” là tôn chỉ của Đại Đạo nói lên tính chất đặc biệt “kỳ ba” của Đại Đạo. Đó là đặc tính “qui nguyên và phục nhất” sau khi lịch sử nhân loại trải qua Thượng nguơn và Trung nguơn và lịch sử tôn giáo trãi qua Nhất kỳ và Nhị kỳ Phổ độ.
Khi mới Khai Đạo, Đức Chí Tôn đã điểm qua cuộc tiến hóa tâm linh của nhân loại như sau :
“ Các con khá biết, Đạo có ba Nguơn. Ba Nguơn ấy là cái số cuối cùng của Trởi Đất. Trước hết mở đầu là Thượng Nguơn. Thượng Nguơn đây chính là nguơn Tạo Hóa là nguơn đã gầy dựng cả Càn Khôn vũ trụ. Vậy khi mới tạo thiên lập địa, nhơn loại sanh ra thì tánh chất con người rất đổi hồn hồn ngạc ngạc, còn dương thuần phác thiện lương nên chi cứ Thuận tùng Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân, tương ái. Thời kỳ ấy người người đều hấp thụ khí Tiên Thiên nên hằng cộng hưởng thanh nhàn khoái lạc và vui say mùi đạo tháng ngày. Bởi đó Đời Thượng Cổ mới có danh là Đời Thượng Đức, mà Thượng Nguơn ấy cũng kêu là nguơn Thánh Đức nữa.
“ Kế đó, bước qua Trung nguơn thì nhân tâm bất nhất, tập quán theo thói đời thâm nhiểm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện lương, bèn cậy ở sức mình mà áp bức lẫn nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát tương tàn, mạnh còn yếu mất thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến không còn kể đồng loại đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa đồng bào. Bởi đó đời Trung cổ mới có danh là đời Thượng lực, mà Trung nguơn ấy cũng kêu là nguơn Tranh đấu nữa.
“ Tiếp đến Hạ nguơn, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, gớm ghê thì nhân loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân nên mới bày ra chước quỉ mưu tà, kế sâu bẫy độc, thiệt là khốc liệt phi thường. Đó cũng là lẽ tự nhiên, càng tranh đấu lắm mới càng tiến hóa. Ngặt càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm nên tranh đấu ắt phải đến thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó, thời hiện tại là thời mạt kiếp, còn Hạ nguơn này là nguơn điêu tàn.”
“ Nhưng hễ loạn thì tới trị, vong tất phục hưng, nên tiêu diệt tất cả sẽ bước đến nguơn Bảo tồn là nguơn Đạo Đức phục hưng để sắp lập lại như đời Thượng Cổ, thế nên cũng gọi là nguơn Tái Tạo.”[6]
Vậy xét theo diễn biến tâm lý xã hội của loài người thì nhân loại hiện đang trải qua Nguơn Điêu Tàn, và theo qui luật tuần hoàn thì trong Nguơn Điêu Tàn đã khởi mầm Nguơn Tái Tạo, đời mạt kiếp là yếu tố thúc đẩy cuộc phục hưng Đạo Đức. Do đó phải có những chuyển biến phù hợp với qui luật nói trên tác động vào tinh thần phân ly hiểm ác để trở nên hiệp nhất đại đồng.
Trong lúc ấy song song với lịch sử nhân loại, tôn giáo, phản ảnh nhu cầu tâm linh con người, sau khi trải qua Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ tương ứng với Thượng nguơn và Trung nguơn, đến thời đại hiện nay, bước qua Tam Kỳ Phổ Độ cũng phải diễn biến đúng theo qui luật nói trên.
Nhất Kỳ Phổ Độ phù hợp với bản chất hồn nhiên của con người Thượng Cổ. Loài người thuở ấy sống hòa mình với thiên nhiên, cảm thấy ở đâu cũng có sinh lực nhiệm mầu của Trời đất và ước ao hòa hợp được bản thân mình vào toàn khối sinh lực ấy và đạt được hạnh phúc lớn lao vĩnh cửu nên Thượng Đế mạc khải cho kinh Vệ Đà, ca tụng bản thể Brahman của vũ trụ, lập thành nguồn gốc Ấn Giáo. Họ cũng cảm thấy có một thần quyền tối cao, tạo hóa vũ trụ ngự trị muôn loài cho nên được mạc khải qua các vị tiên tri có một đấng Chúa Trời mà loài người phải chiêm ngưỡng tôn thờ, lập thành Do Thái Giáo. Ở Trung Hoa, Phục Hy, Văn Vương cũng được mạc khải nguyên lý hóa sinh của Trời Đất để dạy cho con người lẽ Âm Dương Dịch hóa hầu biết sống hòa hợp với lẽ Trời.
Vậy Nhất Kỳ Phổ Độ là thời kỳ bổ hóa cho con người còn bản chất gần gủi với Đạo Trời.
Đến Nhị Kỳ Phổ Độ ứng bới nguơn Tranh Đấu thời Trung cổ nên có các vì Giáo Chủ lập Đạo để cải hóa nhân tâm, định an xã hội. Nhị Kỳ Phổ Độ nhắm ở chỗ cải thiện con người làm đích, nên Phật giáo ra đời chỉ rõ cái khổ hải do “tham sân si”, Lão giáo ra đời dạy sống vô vi thanh tịnh để bảo tồn tánh mạng; Khổng giáo ra đời để đem Nhân Đạo dạy tu thân tế thế. Ky Tô Giáo ra đời để dạy Đức Bác ái hy sinh.
Tuy nhiên. dù muốn dù không con người cũng phải bước qua thời kỳ Hạ nguơn với những điểm đặc biệt sau đây :
Con người ngày càng phát triển văn minh vật chất, ngày càng đấu tranh dữ dội bằng những phương tiện tối tân, lòng tham càng nảy nở, càng xa rời đạo đức; một mặt kiến thức nhân loại mở mang, óc tư duy phát triển, nảy sinh trăm ngàn chủ thuyết tác động vào tư tưởng con người khiến cho nhân tâm chia rẻ, hoang mang không biết đâu là chân lý. Mặt khác, thế giới trở nên liên quan chặt chẻ, con người ngày càng hiểu biết giao tiếp nhau nhiều hơn. Một biến chuyển gì ở một nơi đều có liên hệ đến khắp nơi trên thế giới.
Tôn giáo cũng biến đổi theo nhân tâm, hầu hết đều phô trương hình tướng, cố tạo thanh thế với đời mà không giữ gìn thực chất trong đạo, mặt khác do sự giao lưu phát triển, tôn giáo dần dần mất tích, địa phương cục bộ, khiến cho nhân loại nảy sinh một nhu cầu tâm linh cần nhất quán hết thảy tinh hoa các tôn giáo truyền đạt lại từ Nhị Kỳ Phổ Độ qua các Giáo chủ bốn phương, mới tránh khỏi sự chia rẽ thù nghịch giữa các tín đồ các tôn giáo.
Giữa lúc ấy, ngay đầu thế kỷ 20, Đức Thượng Đế rọi ánh thần quang xuống cõi phàm dấy lên tôn chỉ “qui nguyên phục nhất” là một lập phương đối trị chính xác với trạng huống phân ly toàn diện của nhân loại. Ngày 24.4.1926 Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG phán quyết qua cơ bút :
“Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là :
Nhơn Đạo
Thần Đạo
Thánh Đạo
Tiên Đạo
Phật Đạo
“Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy chính giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nơi tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên THẦY nhất định qui nguyên phục nhất” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q.I,1973,tr.18)
Cơ cấu của cuộc qui nguyên được thành lập ba nền tôn giáo lớn Nho – Thích – Lão, nghĩa là lấy trọng tâm thuần nhất của ba nền tôn giáo đó, gọi là Đại Đạo để hệ thống tất cả các tôn giáo lại thành ĐẠI ĐẠO TAM KỲ có tác dụng cứu thế lớn lao. Cho nên “Tam Giáo qui nguyên” là biểu hiện một công cuộc hồi sinh Chánh Pháp của Đức Chí Tôn mà trong thời kỳ Hạ nguơn con người đã làm cho mai một chẳng những trong tam giáo mà cả trong vạn giáo. Qui nguyên được Tam Giáo thì Chánh giáo sáng tỏ bởi vì Chánh giáo thị hiện ra ở chỗ Đắc Nhất của Tam Giáo : do đó vạn giáo sẽ đều thấy sáng tỏ Chánh pháp trong mỗi tôn giáo và trở nên một hệ thống Đạo pháp thống nhất.
Thế nên sau tiêu đề Tam Giáo qui nguyên là “Ngũ chi Phục nhất” nghĩa là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo sẽ là năm trình độ chuyển hóa liên hợp nhất trí trên cứu cánh giải thoát con người một cách toàn diện và dần dần đạt đến nấc thang tiến hóa tuyệt đích. Mà muốn lập thành hệ thống nhất trí đó, mỗi tôn giáo nhất quán được một Chánh pháp duy nhất của một Đấng Giáo Chủ Duy Nhất Tối Cao là Đức Cao Đài Thượng Đế, để hành đạo dưới hình thức tôn giáo mình, mà mình thọ bẩm được qua những thời kỳ và những địa điểm khác nhau.
Vậy “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” là tôn chỉ mà cũng là “Đạo pháp” của Đức Chí Tôn lập ra giữa thời kỳ Hạ Nguơn để thực hiện một công trình kết thúc cuộc hoằng hóa của Ngài xuyên qua ba thời kỳ như Ngài đã phán.
“ Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập thành cái Đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, 73,tr.52)
“ Tam Giáo Qui Nguyên” không phải chỉ là trùng hưng NHO THÍCH LÃO trong tinh thần đề cao ba nền tôn giáo lớn, hay là làm một sự chấp nối các giáo lý . Cái chân giá trị của tôn chỉ là qui nguyên, là thể hiện chân lý duy nhất tức là Đại Đạo, hay nói một cách rốt ráo hơn là nhận chân được Thượng Đế và trở về với Thượng Đế. Bởi vì Thượng Đế chính là Đại Đạo.
Đức Chí Tôn đã nói từ trước: “ Ngày nay Thầy đến đây đem ba nền tôn giáo hiệp nhất lại tạo thành một tôn giáo lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó mà lánh cơn khổ nạn thảm sầu “ (Đại Thừa Chơn Giáo, Trước tiết tàng thơ, 1956,tr.91)
Và Ngài lại nhắc lại gần đây rằng : “Từ thuở khai Thiên tịch Địa sắp bày trần thế đến ngày nay, các con chỉ hiểu Đạo khai trong những thời kỳ hỗn loạn để cứu thế, hay Đạo khai trong cơ biến dịch đất trời. Đến ngày nay, Thầy đã dạy rất nhiều và rất rõ ràng cho các con từ mấy mươi năm qua, Đạo là con đường duy nhất của vạn linh sinh chúng, từ THẦY ban phát đến thế gian, và từ thế gian các con trở lại cùng THẦY. THẦY là Hư vô chi khí, thì Đạo cũng đồng nghĩa đó thôi. Nên chi, trong thời kỳ Hạ Nguơn, chính mình Thầy dùng khí Hư Vô trực tiếp hữu hình đến thế gian để dẫn dắt thâu hồi những điểm linh quang Thầy đã cho đến trần gian trở về khối Đại Linh Quang” (Ngọc Minh Đài, 8.2.67)
Tóm lại “Đạo pháp” của Tam Kỳ Phổ Độ trên phương diện cương lĩnh lý thuyết dùng tôn chỉ “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhất” để dung hòa thống nhất tinh thần toàn thể nhân loại và để đặt vào mọi cấu thể tôn giáo một nhân tố phát động hay một điểm Đạo làm thành một hệ thống động năng cứu thế chơn chánh và hữu hiệu.
Nhận định về sự phục hưng nền tảng Tam Giáo đồng nguyên, đức Vạn Hạnh Thiền Sư có nói :”Tục ngữ có câu : có bột mới gột nên hồ. Những tư tưởng dung hòa Tam Giáo từ xưa đã là những nền tảng của bột để mang đến thời kỳ này, Đức Chí Tôn mới thị hiện để làm hồ, có đầy đủ một hệ thống giáo lý căn bản không sót, từ xưa, chẳng những từ cổ tới kim mà còn từ Đông sang Tây nữa.”
“ Điểm phong phú dồi dào sinh lực tinh thần ở thời kỳ Hạ Nguơn này là như thể, Tam giáo, Tứ giáo và cả Vạn giáo nữa để gộp thành một tân tôn giáo mệnh danh là Cao Đài Giáo hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” (Thánh giáo sưu tập 70-71,tr.293)
Và Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh cũng đã nêu rõ tác năng, hiệu quả của ngọn đuốc “Qui nguyên phục nhất” xuất phát từ mãnh đất được chọn này, làm quyền pháp bất biến của Tam Kỳ Phổ Độ, vận hành toàn thể các động năng cứu thế trên thế giới.
“ ĐạiTừ Phụ dựng Cao Đài nơi vùng Đông Nam Á này để làm Quyền Pháp. Chính sứ mạng Quyền Pháp này thúc đẩy mọi sở vật thực tại tôn giáo kết thành thực thể Đạo Cứu Thế trong Tam Kỳ Phổ Độ cũng như cái ngòi gà trong quả trứng vậy.
“Quyền pháp Đạo Thực Thể Cứu Thế phải có trách nhiệm trên toàn thể nhân loại. Không phải chỉ giải quyết vấn đề tâm linh, chính là giải quyết toàn diện cá thể con người, chư hiền đệ muội nên nhớ rằng nếu một quyền pháp, một phương thức trị dứt căn bịnh của dân tộc, giải thoát sự hủy diệt của dân tộc này thì sẽ giải thoát được sự hủy diệt cả thế giới“ (Đức Giáo Tông Đại Đạo, NTTT, 01-01 Kỷ Dậu)
Một hệ thống giáo lý thuần nhất bất biến nhất quán từ cổ đến kim dung hòa từ Đông sang Tây, hàm ẩn một sức vận chuyển thiên cơ thế Đạo như trên, thị hiện cái nguyên lý Đại Thừa của Đạo Pháp Tam Kỳ Phổ Độ vậy.
B. PHỤNG HÀNH THIÊN ĐẠO
Trên kia là nguyên lý Đại Thừa trên phương diện lý thuyết, hành đạo để thực hiện nguyên lý ấy gọi là thi hành sứ mạng Đại Thừa hay Thiên Đạo Đại Thừa.
Trước cơ đạo Hạ Nguơn, Nguyên lý Đại Thừa nhắm ở chỗ đạt lý Qui nguyên Tam Giáo để làm quyền pháp tỏa rộng trên màn lưới của tất cả các cấu tử phục vụ Tam Kỳ Phổ Độ.
Nơi mỗi người sứ mạng, Nguyên lý Đại thừa nhắm ở chỗ làm sáng tỏ điểm đạo tự hữu của mình trước để trở nên một nguyên nhân giải thoát, đương nhiên lãnh lấy sứ mạng hiện tiền giữa chúng sanh đau khổ để biến cuộc đời thành thế gian Thánh đức bằng cách chuyển hóa nội tâm mọi cá thể loài người để cùng giác ngộ, tự chủ cuộc sống theo Đạo lý.
- Thiên Đạo Đại Thừa ở lúc phát tâm của người giác ngộ là “vong kỷ vị tha”.
- Thiên Đạo Đại Thừa trên bước đường hành đạo là “Tu tánh Luyện mạng.”
- Thiên Đạo Đại Thừa ở mức viên mãn là hoàn thành sứ mạng độ đời.
Đức Vô Cực Từ Tôn có dạy : “ Thiên Đạo Đại Thừa phải vong kỷ vị tha“ Kỷ mà các con còn vong thì còn gì mà bám víu. Còn kỷ là các con còn Chấp. Còn chấp là còn tranh, thị phi thanh trược. Nếu như vậy thì sứ mạng khó hoàn thành đó các con. Muốn độ đời là phải hòa vào muôn ngàn sai biệt để giác ngộ người đời, giúp người tìm đến tâm linh đã tự có sẳn trong mỗi các con đó. Có như vậy thì sứ mạng các con mới hoàn thành”.[7]
Đức Giáo Tông Đaị Đạo Thái Bạch Kim Tinh cũng dạy : “Con người có tánh mạng. Tánh là Thiên tánh, Mạng là Thiên mạng, hai tú khí âm dương tạo thành là bản thể của Thiên địa vạn vật. Nếu biết tu tánh đừng để tánh bị muội mê bởi tham dục che lấp vì danh lợi tình tiền. Những thứ vật vô thường đã gây cho con người biết bao thảm họa triền miên từ kiếp này sang kiếp khác. Biết tu tánh thời không tham thì vẫn có ăn mà mặc, không lăn thân vào chỗ đau khổ mà vẫn có địa vị con người. Do đó, tu tánh là ánh linh sáng chói trong muôn ngàn nẻo Thánh. Còn biết luyện mạng là Thiên mạng hằng tại, không thiên, không lệch, không ô nhiễm tham dục, trên thuận cùng Trời, dưới an vui bốn cõi, hòa mình khắp chốn, lòng dân là lòng ta, lòng ta là lòng Trời…. Sống thì Thánh, thác thì Thiêng. Oi nội Thánh ngoại Vương, sống hằng sống trong cõi Thiên Đàng cực lạc thì còn gì mà mơ ước nữa. Phật Tiên cũng chỉ thế thôi.”[8]
Nhưng tu Tánh luyện mạng không có nghĩa là “độc thiện kỳ thân” Bước đường giải thoát chỉ viên mãn trong sự cứu độ chúng sanh bởi vì Thiên Đạo là đường lối Đại Thừa. Cho nên Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn có nói :
“ Người hành giả quyết tâm học chánh pháp Đại Thừa là có sứ mạng cao cả để thực hành Thiên Đạo trong xã hội……..vì vậy, các hàng giáo chủ xưa kia muốn đánh thức giấc ngủ triền miên say đắm của dân tộc, của nhân loại phải tự mình thể nghiệm trước để tìm thấu hiểu nguồn cội hạnh phúc vĩnh cửu cho nhơn loại. Khi nhận thức được chơn lý tuyệt đối mới lập thành tôn giáo trong một quốc gia để khai phóng con đường hồi sanh giác ngộ. Từ một tôn giáo đến một quốc gia đến xã hội nhơn loài, cái chủ đích ấy không giáo chủ nào không thực hiện. Thế thì người tu hành học đạo mong được giải thoát là phải mang vào sứ mạng Đại Thừa.[9]
Tóm lại, ứng dụng nguyên lý Đại Thừa vào người hành giả là một cuộc thực hành Thiên Đạo giải thoát. Mà Thiên Đạo giải thoát có nghĩa là sống bằng Thiên mạng thể nhập vào cuộc sống cũa nhơn loại để chuyển đưa nhơn loại theo Thiên lý mà tiến hóa đến sự viên thành Bản Thể đồng nhất hiệp nhất hằng tại.
Chỗ rốt ráo của Đạo pháp Thiên Đạo Đại Thừa là tính vô phân biệt, vô sai biệt của tâm. Chỗ viên thành cái tánh mạng hành giả là chỗ hiệp nhất trong Bản thể đồng nhất duy nhất. Bởi vậy Đức Chí Tôn lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nói một cách đơn giản là để kêu gọi nhơn loại như sau :
“ Hỡi các con ! Hãy cố tìm sự sáng suốt của Thầy ban cho mỗi trẻ từ Bạch Ngọc Kinh đến đây để suy đoán kiếp sanh tồn của con, và con nắm vững sự sáng suốt ấy để chầu Thầy hằng bữa đang ngự trị trong lòng con…Thầy phải đem hình thức Thánh Thế sắp bày nơi trần gian cũng như Thầy đã vạch rõ máy hành tàn vận chuyển sự sanh tồn của con ra trước mắt, để con tìm thấy sanh môn tử lộ, tìm thấy Thầy là các con, các con là Thầy“ (Thánh giáo sưu tập 66-67, tr.90)
Do đó, từ trước đến sau Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hình thành và vận chuyển theo ba nguyên lý : nguyên lý nhất nguyên của vũ trụ, nguyên lý đắc nhất của con người, nguyên lý Đại Thừa của Đạo pháp tức là một thể nghiệm đương nhiên của nguyên lý Thiên Địa vạn vật Nhất thể và “ Nhất bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhất bổn” trong thời kỳ Hạ nguơn này vậy.
