

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
TRÍCH LỤC THÁNH GIÁO
Đức Chí Tôn dạy về KHAI MINH ĐẠI ĐẠO tại Cơ Quan PTGLĐĐ vào ngày 15.10.Quí Sửu
-
Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào bạn chợt tự hỏi “ Tôi là ai ?”. Câu trả lời hiếm khi là có hoặc giả không hề! Bởi vì ai mà không tự biết mình ?
_ Biết mình là biết những gì? Biết mình ở đây không chỉ là biết lý lịch cá nhân, mà còn tự khẳng định lối sống của mình, phong cách quan hệ xã hội, sở thích và thành kiến; những ứng xử trong mọi tình huống giữa đời sống thực tế. Tất cả những điều đó hình thành con người xã hội của mỗi cá nhân. Những “yếu tố xã hội” ấy từ đâu đến? _ Nó đến từ nền giáo dục, từ tập quán gia đình, từ truyền thống dân tộc, qua đó, tùy theo nhận thức, tư duy bản thân mà đối tượng trở nên thành đạt hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ.
_ Hạnh phúc ? Thế gian vẫn còn tranh cãi thế nào là hạnh phúc thật.
_ Đau khổ ? Nguyên nhân thực sự là gì, bên trong hay bên ngoài?
-
"Chử TÂM là chốn CAO ĐÀI
Không phân tã hửu là ngai Thượng Hoàng."
Đó là lời dạy của đức Vạn-Hạnh Thiền-Sư ngày 11-05-1970 Canh Tuất tại Trúc-Lâm Thiền Điện (VN).
"Chử Tâm là chốn Cao Đài" có nghĩa là Thượng Đế ngự ở Nội Tâm mổi chúng sinh. Đức Đông Phương Lảo Tổ cũng dạy:
"Tâm mình là điện thờ Thầy,
Giử cho thanh bạch hằng ngày kỉnh tin."
-
TỔNG QUAN VỀ Ý THỨC HỆ CAO ĐÀI
1. Định nghĩa
1.1. Ý thức hệ
Con người là những cá thể và quần thể sống có suy nghĩ, có tư duy. Sự suy nghĩ hay tư duy giúp cho con người có tư tưởng.
Giữa tư tưởng và ý thức có một mối liên hệ mật thiết. Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy:
“Tư tưởng là gồm những ý thức trưởng thành để linh động hóa tiềm năng vô cùng của con người.”[1]
Những tư tưởng dẫn dắt nếp sống, đường lối hành động của con người, vạch ra mục đích cuối cùng của một tập thể, một dân tộc hay nhiều dân tộc gọi là “Ý thức hệ” (Ideology).
Trong “The American Heritage Illustrated Encyclopedic Dictionary”, ý thức hệ được định nghĩa:
“Ý thức hệ là phần trọng tâm hay chính yếu của tư tưởng, phản ảnh các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân, tập thể hay một nền văn hóa.”
“Ý thức hệ là một hệ thống học thuyết hay tín ngưỡng làm nền tảng cho một hệ thống chính trị, kinh tế hay các hệ thống khác.”[2]
-
ĐÚC KẾT HỘI THẢO
"Cuộc đời và đạo nghiệp Đạo Trưởng Huệ Lương Trần Văn Quế"
( từ 05-12 đến 07-12-2007)
tại CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO
Mùa Khai Minh Đại Đạo đối với toàn đạo là mùa kỷ niệm Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai minh trước quốc dân bá tánh, cũng là thời điểm tín hữu Cao Đài tri ân chư Tiền bối Tiền khai Đại Đạo.
Đối với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, Minh Lý Thánh Hội và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, tháng 10 âm lịch còn có một kỷ niệm đặc biệt về ngày đăng tiên của Đạo Trưởng Huệ Lương, Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo, VĩnhTịnh Sư Minh Lý Thánh Hội và Tổng Lý Minh Đạo CQPTGLĐĐ.
Do đó, với tình cảm thân thương và lòng tôn kính tưởng niệm người Anh lớn đã được Đức Chí Tôn chọn ngày Khai Minh Đại Đạo để trở về tiên cảnh, Cơ Quan đề xướng và được hai Hội Thánh ủng hộ tổ chức đợt hội Thảo trang trọng này.
-
Ý NGHĨA NGÀY 13 tháng 3
Hạ tuần tháng 2 Quý Sửu – 1973, giải thích lý do vì sao Ơn Trên đốc thúc việc xây cất phải cố gắng làm để kịp khánh thành ngôi "Vĩnh Nguyên Tự tái thiết" tại tỉnh Long An vào ngày 13 tháng 3 Quý Sửu, Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy:
"Bần Đạo giải thích về đạo số cho chư hiền được rõ:
Ngày 13 tháng 3, Tiền Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn đã chọn ngày ấy phong Thánh cho tam vị Đại Thiên Phong Chức Sắc đầu tiên. Đó Là Thượng Trung Nhựt Lê Văn Trung, Ngọc Lịch Nguyệt Lê văn Lịch, Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
"Sau đây Bần Đạo dạy về việc hành lễ Khánh Thành An Vị Vĩnh Nguyên Tự:
Chư hiền đệ muội có biết tại sao Chí Tôn Thượng Đế đã chọn ngày 13 tháng 3 để cử hành cuộc lễ đó chăng ? Sao lại không chọn thời gian khác để có đủ thì giờ chu toàn công việc tái thiết được hoàn mỹ thêm hơn ? Để khỏi mất thì giờ, Bần Đạo giải thích về đạo số cho chư hiền được rõ (…)
Chí Tôn Thượng Đế đã chọn ngày an vị khánh thành sắp tới đây để các sứ đồ con cái của Ngài ôn nhớ lại kỷ niệm thời kỳ khai nguyên lập đạo. Vì tác dụng, nhu cầu cho việc truyền bá đạo pháp cứu độ quần sanh (…) Thế nên, trong phạm vi hiện hữu với khả năng cố gắng tối đa của nhơn sanh chỉ tới chừng ấy, Chí Tôn vẫn cho phép hành lễ trong năm này để kịp thời sử dụng trong công cuộc cứu rỗi."
(Đức Đông Phương, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 20.02 Quí Sửu 24.03.1973)
-
TÂM LINH TRÊN ĐƯỜNG TIẾN HÓA
Những năm cuối của thế kỷ XX có nhiều nhà nghiên cứu đã tiên đoán rằng thế kỷ XXI sẽ mở sang một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của tâm linh. Nếu đúng như thế, quả rất mừng, vì chúng ta là những người có đức tin, đang cố gắng rèn luyện tâm linh của mình để được tiến hóa. Nhưng để thật tự tin và đức tin được vững vàng, chúng ta tự hỏi đó có phải là những suy diễn hay những ảo tưởng vô căn cứ của một số nhà nghiên cứu không?
Thật ra, nếu xét kỹ lịch sử nhân loại cũng như quá trình văn minh thế giới thì luận cứ trên cũng không có gì mới lạ. Bởi vì “Vật cùng tất biến” và “Âm cực Dương sinh”. Hai câu nói ngắn ngủi ấy tuy đơn giản nhưng là những nguyên lý, những quy luật chi phối toàn thể vạn vật, vạn sự trong vũ trụ. Vũ trụ dịch biến, tinh thần và vật chất tất cả đều nằm trong quy luật ấy, lặp đi lặp lại theo thời gian bằng những chu kỳ không ngừng nghỉ, nghĩa là cùng rồi biến, biến rồi thông, tạo thành lịch sử, mà lịch sử là gì? _ Lịch sử là cuộc biến thiên, là hành trình tiến hóa của vạn vật chúng sanh.
-
Ý NGHĨA THẦN CHÚ ĐẠI BI
Thời Phật còn tại thế, ở núi Bồ đà lặc ca, tại đạo tràng Bảo trang ghiêm cùng hàng tam thừa bát bộ và chư thần vân tập đông đủ, ngài Quán thế âm bí mật phóng hào quang soi khắp mười phương quốc độ, Ngài chấp tay bạch rằng:
" Bạch Đức Thế Tôn, con có thần chú bí mật muốn nói cho mọi người biết để trì tụng cho thân tâm được an lạc, không tật bệnh, sống lâu nhiều phước lộc. Thần chú này có công năng dứt trừ các tội ác và cầu mong gì thì như ý muốn."
Đức Phật chấp nhận cho ngài Quán thế âm được trình bày thần chú của mình. Ngài bạch Phật rằng:
"Thời quá khứ trải qua vô lượng ức kiếp có đức Phật xuất thế, hiệu Thiện Quang vương Tịnh trú Như lai, vì con mà nói thần chú Đại bi. Thuở ấy, con đang ở quả vị sơ địa mà một lần nghe thần chú Đại bi, con liền đạt đến quả vị thứ tám. Con phát đại nguyện: "Nếu thần chú này làm cho chúng sanh đời sau có sự ích lợi to lớn thì phải khiến thân con có ngàn cánh tay và ngàn con mắt".
Nguyện như vậy rồi, quả thật thân con có ngàn cánh tay và ngàn con mắt, tha thứ vang động. Các đức Phật phóng hào quang chiếu nơi thân con. Hào quang cùng chiếu vô biên thế giới.
-
I. Trends in Practicing Cao Dai Religion in the International Integration of Culture and Communication.
II. Trends in Practicing Cao Dai Religion in the Context of Global Environmental Challenges.
The teachings of Cao Dai utilize the principle of "Heaven, Earth, and all beings as one entity," emphasizing that all creatures (including humans) share a common essence, where life and evolution are regulated by the natural laws of the universe, maintaining a balanced living environment for all individuals to exist and develop according to the continuous evolutionary cycle.
III. Guiding Principles for the Practice of Cao Dai Religion in Building and Protecting World Peace
-
ĐỨC DA TÔ GIÁO CHỦ
BÀI HỌC LỚN CỦA MUÔN ĐỜI
KIM DUNG
Mùa Giáng Sinh lại đến, cả hành tinh này đang tưng bừng rực rỡ với những ngọn đèn nến, nhơn sanh nhộn nhịp thiết lễ tưởng nhớ đến một Đấng Cứu Thế của hơn 2000 năm qua đã tỏa sáng ánh đạo lý yêu thương cho muôn loài:
Chúa Cứu Thế muôn đời còn mãi sống,
Sống muôn đời và sống mãi muôn đời.[1]
Ngài vẫn sống mãi trong lòng nhân loại với đầy sự tôn kính và sùng thượng.
Hằng năm vào ngày giờ này thánh thất Bàu Sen long trọng thiết lễ kỷ niệm mừng Chúa Giáng Sinh. Trong không khí thiêng liêng tràn ngập ân phước và bình an của Đức Chúa Trời, tất cả chúng ta, những môn đệ của Đức Chúa Da Tô cùng dâng nén tâm hương thành kỉnh hướng về Ngài để chiêm ngưỡng Đấng Cứu Thế đã chịu đổ máu đào trên thập giá, hy sinh thọ khổ, chuộc tội cho loài người.
[1]Thánh thất Bàu Sen, 23-11 Đinh Mùi (24-12-1967).
-
Ngũ Chi Đại Đạo là Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện và Minh Tân. Minh Sư có nguồn gốc từTrung Hoa, truyền qua Việt Nam vào năm 1863. Minh Đường có nguồn gốc từ Minh Sư.
Ba chi Minh Lý ([1]), Minh Thiện và Minh Tân được Ơn Trên chuẩn bịcó mặt ở miền Nam Việt Nam vài năm trước khi đạo Cao Đài ra đời để làm điều kiện yểm trợcho công cuộc khai mở Đại Đạo Tam KỳPhổ Độ.
Không kể Minh Lý, một sốthánh sở của bốn chi đạo Minh Sư, Minh Đường, Minh Thiện và Minh Tân đãquy hiệp Cao Đài và ngày nay vẫn còn.
Ngoài bốn chi nói trên, vào những ngày đầu khai Đạo, các đàn phổ độ của đạo Cao Đài thường lập tại tư gia hoặc mượn một sốchùa Phật như:
Hội Phước Tự, Trường Sanh Tự của Yết Ma • Luật (ở Cần Giuộc, Long An).
Long Thành Tự, Phước Linh Tự của Yết Ma • Nguyễn Văn Xoài (ở Cần Đước, Long An).
Vạn Phước Tự của Yết Ma Lê Văn Nhung (ở • Hốc Môn, Gia Định).
Phước Long Tự của Yết Ma Giống (ở Chợ• Đệm, Bình Chánh).
Thiền Lâm Tự (chùa Gò Kén) của Hòa Thượng • Như Nhãn (ở Long Thành, Tây Ninh).
-
Tín ngưỡng Việt Nam còn gọi là tín ngưỡng truyền thống hay tín ngưỡng dân gian, là tín ngưỡng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Audio bài thuyết minh của Thiện Chí
Diển ngâm tha1nhh giáo bài HOÁN TỈNH XUÂN HỒN
Thánh giáo Xuân : Xuân bất diêt - Diêu Hyền ngâm
Thanh giao day ve xuan
Bai2 thuyết KHAI XUÂN TÂM ĐẠO
Cảm tác đầu Xuân
Thuyết minh giáo lý đầu năm : Mùa Xuân là mùa mở đầu bốn mùa của một năm, gợi lên ý chí "Tiến đức, tu nghiệp" trên đường tu học hành đạo . . .
SỨ MANG VI NHÂN - THIỆN CHÍ Thuyết minh GL tại Thánh thất Kim Thành Long (long An)
SỨ MẠNG VI NHÂN - Thiện Chí- TMGL TẠI tHÁNH THẤT KIM THÀNH LONG (Long An)
Thuyết đạo tại Vĩnh Nguyên Tự (Thiện Chí)