

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
"Sự tín ngưỡng : Thầy rất mừng các con giờ nầy đến đây, trước vui cùng các con, Thầy ngẫm ...
-
Huyền vi bí mật Tạo-Đoan đã cho một tánh-chất ly-kỳ bí mật , là khôn-ngoan hơn Vạn-Vật, do khôn-ngoan ấy ...
-
Hương Sơn là một cảnh đẹp thiên nhiên nổi tiếng vào bậc nhất của nước ta. Ở đây cảnh đẹp ...
-
Từ thuở khởi nguyên của đạo tức tôn giáo Cao Đài chúng ra, khi Đức Chí Tôn vừa thâu nhận ...
-
(Của TRẦN HI DI TIÊN SANH) do Ngài cố Minh Thiện trích dịch năm 1960 1. Trần Lão tổ đặt bài ...
-
Nếu kể từ đêm giao thừa Bính Dần 1926 đến giao thừa Ất Mùi 2015 này thì người Cao Đài ...
-
Mẹ đến cùng con giữa tiết thu, Dắt dìu con trẻ thoát mây mù; Mượn câu đạo lý lời an ủi, Dụng tiếng ...
-
Ý Nghĩa Vu Lan Trần Ngọc Tâm Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, là Lễ Trung Ngươn Địa Quan xá tội, ...
-
1. Tổng quát Mỗi tôn giáo ra đời đều gắn liền với vị Giáo chủ khai sáng. Và để tôn vinh ...
-
Cơ Đạo cấp thiết, đại cuộc lớn lao, cần có những đoàn người hy sinh, hiến dâng cho mục đích ...
-
Quan niệm và biểu tượng về Thượng Đế trong Đạo Đức Kinh 1. Giới thiệu. Khi qua ải Hàm Cốc, Đức Lão ...
-
Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ. Hồi thế kỷ 19, với sự ...
Thiện Chí
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 27/06/2025
KẾT TẬP CÁC BÀI THUYẾT ĐAO $ BÀI GIAMNG3 của ĐH THIỆN CHÍ NVT

Đến ngày nay các tôn giáo lớn vẫn đang phổ truyền kinh điển và pháp môn tu luyện cho hàng trăm triệu tín đồ. Tuy nhiên, trên thế giới, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn, bạo lực và tàn sát diệt chủng vẫn còn, nghèo đói , bệnh tật vẫn tràn lan ở nhiều nước trong khi văn minh khoa học đã đạt đến đỉnh cao thời hiện đại. Người ta tự hỏi vai trò của tôn giáo liệu có thể đem lại hòa bình, an lạc, tiến bộ cho nhân loại?
Trong khi đó, vào đầu thế kỷ 20, tại một nước còn bị xem là nhược tiểu, bị trị lại phát sinh một tôn giáo mới! Đạo Cao Đài xuất hiện!
Ban đầu người ta nghĩ rằng, do xu thế đi tìm chỗ dựa tâm linh giữa cuộc đời nhiểu nhương thống khổ, lập ra một tôn giáo mới cũng chỉ là thêm một tôn giáo bình thường trong lịch sử. Nhưng thậ ra ;
“Người vẫn tưởng Cao Đài Tôn Giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương ;Gồm thâu trăm nẻo ngàn đường, Tam nguơn chuyển thế định phương phục hoàn.”
(Vạn Hạnh Thiền Sư, Trúc Lâm Thánh Đức Thiền Điện, mùng 7 tháng 3 Giáp Dần (30.3.74
* * *

(ẢnhThánh thất đầu tiên tại Gò Kén,Tây Ninh)

.jpg)

Thế nên, giải đáp “Nguyên nhân Thượng Đế khai Đạo tại đất nước Việt Nam”sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa Khai minh Đại Đạo, mà chính Đức Thượng Đế Cao Đài đã truyền đạt thiên lý như sau:
“Các con ôi! Thầy là Chúa Tể Càn Khôn, sanh ra muôn loài vạn vật, bao nhiêu cuộc tuần hoàn, dinh hư tiêu trưởng, đó là sự mầu nhiệm của Thầy đã định sẵn. Vì vậy, mà đến buổi Hạ Nguơn, Thầy đến xứ Việt Nam này để khai Đạo, kêu gọi các bậc nguyên nhân hãy sớm lập công bồi đức, hướng dẫn toàn thể sanh linh sớm tỉnh tu để về cõi trường tồn chánh giác, hoặc hưởng đời Thượng nguơn thánh đức.
Trong Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Đức Chí Tôn đã dạy rõ:
“Các con khá biết: Ðạo có ba nguơn, ba nguơn ấy là cái số cuối cùng của Trời, Ðất. Trước hết mở đầu là Thượng Nguơn.[…]Kế đó bước qua Trung Nguơn[. . .] mà Trung Nguơn ấy cũng kêu là nguơn «Tranh Ðấu» nữa.[. . .]Tiếp đến Hạ Nguơn,[ . . ]còn Hạ Nguơn này là nguơn «Ðiêu Tàn.»
Thượng ngươn | Trung ngươn | Hạ ngươn |
«Nguơn Tạo Hóa» (Nguơn Tái Tạo) |
Nguơn «Tranh Ðấu» (Ngươn Thượng lực) |
Nguơn «Ðiêu Tàn.» (Đời Mạt kiếp) |
Tạo hóa dựng cả Càn Khôn Võ Trụ. Đời thánh đức | người mất điểm thiện lương |
Người đời nhiều mưu tà |
Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất phục hưng, nên ngươn tiêu diệt tất sẽ bước đến nguơn bảo tồn là nguơn Ðạo đức phục hưng, để sắp lập lại như đời thượng cổ, thế nên cũng gọi là ngươn «Tái Tạo.» [ . . .](Đại Thừa Chơn Giáo, Mục Dưỡng sanh tánh mạng, Thánh giáo 18 tháng 9 Bính Tý 1936)-
Thế nên Đức Thượng Đế khai Tam Kỳ Phổ Độ để đem Chánh pháp giáo hóa chúng sanh biết giác ngộ, phục hồi nhân bản, sống đời thuần lương, dần dần xây dựng kỷ nguyên thánh đức.
II. Nguyên nhân do đức háo sanh của Thượng Đế trước khổ nạn của chúng sanh.
1.- Tình hình bi đát trên thế giới
Những thập niên đầu TK 20 (trùng hợp với thời kỳ khai Đại Đạo trong Tam kỳ Phổ độ) khoa học bắt đầu phát triển, tiện nghi đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, đồng thời chủ nghĩa đế quốc và kinh tế tư bản cũng nảy sinh; các nước lớn đua nhau đi chiếm thuộc địa, lớp người giàu có làm chủ hầu hết các nguồn lợi quốc gia, đa số thường dân đều bị đày đọa, nghèo đói.Thế giới chiến tranh thứ nhất nổ ra, tiếp theo là thế chiến thứ hai, các nước thuộc địa nổi dậy chống đế quốc, mâu thuẩn quyền lợi chủ-thợ phát sinh…
Tại Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm chết khoảng 2 triệu người là một hậu quả thảm khốc do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh cục bộ, chủ nghĩa quân phiệt và guồng máy cai trị vô nhân đạo của đế quốc.
2.- Đại nguyện của Đức Cao Đài
Trước tình trạng thoái hóa cực độ của con người vào thời Hạ ngươn, cán cân đời sống xã hội chênh lệch về phía hưởng thụ vật chất, bất chấp các giá trị nhân phẩm, nhân đạo bị chà đạp, thế gian trở nên một trường sát kiếp đầy dẫy hận thù, nghiệp quả trả vay không bao giờ dứt, Đức Chí Tôn động lòng từ bi, quyết lập đại nguyên khai Đại Đạo cứu độ vạn linh:

( Ảnh: tín hữu hành lễ tại thánh thất )

“CAOThượng bổn nguyên Ðạo chí thành,
ÐÀI tiền chực rước đám lương sanh,
GIÁO minh chơn lý truyền tâm pháp,
CHỦ ý vào lòng rán luyện phanh.
Thầy mừng các con. Thầy miễn lễ các con.
Phú:
"Ðời cùng cuối, Phật, Tiên giáng hạ, đem Ðạo mầu phổ hóa khắp Ðông Tây.
Cuối hạ nguơn máy Tạo vần xây, nạn tiêu diệt, sự họa tai kh(ông tránh khỏi.
Cơ dĩ định tang thương biến cải, ôi! là đời sao quá dại chẳng thức lý tầm nguyên.
Phong tục đành loạn lạc ngữa nghiêng, bỏ mất mối giềng của Ðạo Trời là luân thường cang kỷ.Nếu các con chẳng chịu tu hành, không bỏ dữ làm lành, Ðạo không thànhThầy nguyện không trở về ngôi vị cũ. . .”
(Đại Thừa Chơn Giáo, Đại nguyện của Đức Cao Đài)
Các đấng Phật Tiên đều nhận định đã đến lúc thiên cơ mở cuộc tận độ vì nhân loại đang tuột dốc vào địa ngục trần gian:
. . .Tam Kỳ Phổ Độ, Thượng Đế chính mình giáng trần chọn lựa nguyên nhân thánh thiện trao gởi quyền pháp để phổ độ toàn linh xiển dương chánh pháp cho Đại Đạo lập thành, thế giới mới hòa bình, càn khôn mới an tịnh. Một hành vi rất giản dị mà lý huyền nhiệm khôn lường. Nếu chẳng phải chánh tâm tu kỷ thì khó tìm ra chánh lý để chứng quả Thiên tôn.” (Đức Di Lạc Thiên Tôn, Tuất, 2.01.C.Tuất,(7.2.70),tr.2)
III. Nguyên nhân khai Đạo tại đất nước Việt Nam
1.- Tình hình xã hội Việt Nam vào thời khai Đạo
Vào hậu bán TK 19, Việt Nam bị Pháp xâm lược. Sáu tỉnh Nam Kỳ từ đó trở thành thuộc địa thực dân. Trung Kỳ và Bắc Kỳ là đất bảo hộ của Pháp.
Xứ Nam Kỳ là miền đất mới khai phá, dân tứ xứ từ miền Bắc, miền Trung, người Hoa, người Miên đến lập nghiệp khá đông, Đặc biệt, ở mặt văn hóa, bắt đầu tiếp cận văn hóa phương Tây, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, hệ thống giáo dục mới đào tạo ra một hàng ngũ trí thức mới.
Tuy nhiên, chế độ cai trị hà khắc của thực dân, cộng với nạn cường hào ác bá làm cho nhân dân chịu nhiều áp bức, trở nên nghèo đói lầm than. Lòng yêu nước, tính hào hiệp của dân Nam Kỳ đã thúc đẩy nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên.. . . Người Việt vốn dĩ có truyền thống tín ngưỡng Tam giáo, trong hoàn cảnh này, nhiều thành phần xã hội mạnh dạn học đạo, tu hành tại các chùa thuộc năm Chi đạo họ Minh ( Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Lý )
2.-Dân tộc được chọn.
Trong bối cảnh lịch sử và bản tính của con người và xã hội địa phương như thế, đất Nam kỳ có được cơ duyên để Thượng Đế khai sinh nền Tân tôn giáo. Nhưng sự đặt định này của Thiêng Liêng có nguyên nhân sâu xa mang ý nghĩa “dân tộc được chọn”:
Ngay thuở sơ khai nền Đạo, Đức Chí Tôn từng phán:
“Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Giáo Đạo Nam Phương,
“Từ đây nòi giống chẳng chia ba,
Thầy hiệp các con lại một nhà.
Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền chơn đạo một mình ta.”
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tòa Thánh Tây Ninh, q.1, đàn 19-9-Bính Dần (1926)
Ngày 13-12-1926, Thầy khẳng định:
“Vốn Thầy lập nền chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu.”
Những đặc điểm của dân tộc được chọn, thánh ngôn cũng đã nêu rõ, gồm đức tin, đạo đức, ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành, tình thương và lòng hiếu hòa:
“Các con là dân tộc Việt cũng như các dân tộc khác sanh trưởng tại quả địa cầu này. Tình thương Tạo Hóa cũng ban đồng cho các con cũng như các con khác. Nhưng dân tộc các con đã đau khổ quá nhiều, non sông tổ quốc các con đã bị dày xéo lâu đời, nhưng các con được trội hơn chúng về đức tin, về lòng đạo đức, ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành. Tình thương các con không thiếu, lòng hiếu hòa các con có thừa, do đó dân tộc các con mới hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.” ( Đức Chí Tôn,Thiên Lý Đàn, 30.10.M.Thân (19.12.68) tr.2)
3.-Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên và tín ngưỡng thờ Trời là nền móng tâm linh để Đức Chí Tôn khai minh Đại Đạo tại Việt Nam
. Đặc biệt tín ngưỡng thờ Trời, thờ Thánh mẫu là niềm tin vào sự hộ trì ban phước của Thiêng liêng đối với sự sống còn của nông dân. Các lễ hội được mùa, cầu mưa, tế thần tạ ơn cầu phước, thể hiện đức tin có mối liên hệ giữa người và cõi vô hình thiêng liêng.[1] Tín ngưỡng thờ Trời của các triều vua ở nước ta thể hiện bằng lệ tế Nam giao tức tế Trời rất trọng thể, cầu cho quốc thái dân an.(Chinh trên mặt bằng tín ngưỡng rất nhân bản này mà dân tộc Việt Nam trở nên dân tộc được chon để Đức Thương Đế ban trao sứ mang TKPĐ bằng Tôn chỉ “Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phu nhất)
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư, từng giải bày truyền thống Tam giáo đồng nguyên như sau:
“ [. . .] Chính tư tưởng đồng nguyên Tam Giáo ấy được thể hiện đầy đủ nơi chốn dân gian qua đời sống nhàn tản tiêu dao xa lánh lợi danh để tu tâm dưỡng tánh, hay có chăng làm những việc lành để khỏi bị luân hồi kiếp nạn về sau, hay dốc chí đem tài đức của mình ra để tề gia trị quốc.” (Trúc Lâm Thiền Điện, 30-6 Tân Hợi (18-10-71)
4.- Sự xác nhận của Thiêng Liêng về đặc ân “dân tộc được chọn” của dân tộc Việt Nam.
Đức Thánh Nữ Trưng Vương, trong một lần giáng cơ đã nói:
“Này các em!
Hảo Nam Bang! Hảo Nam Bang!
Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn."
Nhờ đấy nên dầu cách biệt bao nghìn năm vẫn có dịp hội ngộ với nhau trên huyền vi pháp nhiệm của Đức Thượng Đế. Dầu cách biệt bao nghìn năm, tâm sự Chị và các em hẵn không khác nhau là mấy.” (Thánh Thất Bình Hòa, Rằm.8.C.Tuất (14.9.70) tr.2)
Ngày nay, hàng hậu duệ của dân tộc có thể xem đó là tuyên ngôn của tổ quốc về sứ mang Tam Kỳ Phổ Độ trên toàn nhân loại.
Chư Tiền Khai Đại Đạo đã khẳng định:
“Như vậy, ngày nay trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không riêng một quốc gia xã hội chủng tộc nào, vẫn được những hồng ân đại xá của Đức Chí Tôn chan rưới. Điều quan trọng hơn hết là mảnh đất bé con này lại là mảnh đất hạnh phúc, dân tộc thiểu số này lại là dân tộc được chọn. Như vậy, những dòng lịch sử, những di tích ắt phải được toàn dân toàn Đạo chú ý đến. Có phải vậy không chư hiền đệ.”
(Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ, 22.3.T.Hợi (17.4.71 tr.2)
Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn từng minh thị ý nghĩa Chí Tôn khai Đạo tại Việt Nam như sau:
“Đức Thượng Đế mở cơ tận độ,
Đất Việt Nam sớm trổ hoa lành;
Giữa hồi thế giới chiến tranh,
Đạo mầu gieo rải ơn lành bố ban.
Độ nguyên nhân vào hàng thánh thiện,
Dắt người đời tu tiến lập công;
Gầy nên xã hội đại đồng,
Từ bi bác ái trong vòng khuôn Thiên.. . .
IV- Thượng Đế khai Đạo tại Việt Nam để thiết lập quyền pháp thực hiện sứ mạng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sứ mạng ĐĐTKPĐ về mặt thiên cơ, theo luật Tiến hóa “Chung nhi phục thỉ”, là sứ mạng Quy nguyên. Sứ mạng quy nguyên sẽ tác động toàn diện và toàn thể, từ mỗi con người, mỗi tôn giáo, mỗi dân tộc, và cả nhân loại. Có thể nói, Tam Kỳ Phổ Độ là “Cơ Qui nguyên hiệp nhất”
Đối với cá thể, quy nguyên là qui tâm
Đối với tôn giáo, quy nguyên là trở về nguồn gốc Đại Đạo
Đối với các dân tộc và nhân loại, quy nguyên là phục hồi nhân bản
Thế nên, khi Thượng Đế khai Đạo đã nêu lên Tôn chỉ “ Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” và mục đích “Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thoát.” Cả hai tiêu ngữ đều thuộc về sứ mạng qui nguyên, như thánh ngôn của Chí Tôn ngay từ sơ khai Đại Đạo:
“Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Giáo Đạo Nam Phương”,
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu, chư tín nữ.
“Chư nhu nghe: Ta vì lòng đại từ đại bi, vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ. Tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nôi địa vị cao thượng, để tránh số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó nơi thế gian nầy.”(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, q.1, TT. Ninh, Lundi 6 De1cembre 1926 (2-11-Bính Dần)
Muốn thực hiện sứ mang Đại Đạo, Thấy ban trao “Quyền pháp Đạo”
Quyền pháp là điểm “Đạo”, là quyền năng của Thượng Đế đặt để vào một cơ cấu nhứt định để tác động cơ cấu ấy chuyển hóa hoàn thành sứ mạng được ban trao.
Đức Lý Giáo Tông đã dạy rõ quyền pháp của thực thể Cao Đài:
“Sứ mạng của dân tộc nầy to tát như thế, quyền pháp quan trọng như thế, không phải làm không được. Chư đệ muội hãy chờ đợi, việc sẽ đến và đang đến. Từ ngàn xưa, trên lịch sử đã từng được nghe và thấy rõ. Việt Nam một dân tộc mà tất cả thế giới đều nhìn vào, không phải nhìn vào vì nó có sự đe dọa tàn phá cả thế giới, mà nhìn vào chính nó là một động năng cứu rỗi xây dựng mới trên toàn thể nhân sinh.”
KẾT LUẬN
Như đã trình bày khái quát trên đây, đề tài “Nguyên nhân Đức Thượng Đế khai Đạo tại đất nước Việt Nam” được phân tích làm hai phần:
1_Nguyên nhân Đức Thượng Đế khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do thiên cơ
2_Nguyên nhân Đức Thượng Đế khai Đạo tại đất nước Việt Nam
Nguyên nhân thứ nhất thuộc về thiên cơ, do qui luật tuần hoàn giáp mối, trải qua Thượng ngươn, Trung ngươn, đến Hạ ngươn tức Ngươn “tái tạo dinh hoàn” (lập lại cõi thế gian)
Nguyên nhân thứ hai do dân tộc Việt Nam là dân tộc được chọn,
Vậy, với tình cảm thiêng liêng, yêu mến, quí trọng sâu sắc Thánh địa Nam Bang là đất nước được Chí Tôn chọn lựa khai mở Đạo Trời, ban trao sứ mạng Quyền pháp Cao Đài cho dân tộc ta, chúng ta hãy đón nhận và gắn bó với cơ duyên hi hữu này, sống đạo hành đạo trên tổ quốc này cho đến ngày công viên quả mãn, như tâm tư của Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn trao gởi cho chúng ta năm nào:
“Đã ở nơi đây, đã sống nơi đây, nhất là đã sanh trưởng nơi đây và ngày nào đó sẽ gởi tấm xương tàn nơi đây vào lòng đất mẹ, tôn giáo này cũng phát nguyên nơi đất nước này là đất nước của dân tộc Việt, mỗi người có bổn phận xây dựng nó. Tuy đa diện mỗi người mỗi cách, nhưng con số cứu cánh là an vui hạnh phúc, đạo đức, tiến bộ cho tất cả mọi người trên mảnh đất này[. . .]
Dầu thế sự đảo điên nguy khốn,
Dầu nhơn tâm ly loạn tán phân;
Trời Nam mở rộng đường trần,
Gót Tiên dặm thẳng độ lần chúng sanh.” (Văn Phòng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 20.3.Canh Tuất (25.4.70
Nhưng đừng hiểu rằng : hòa mình cùng đại thể dưới bóng Huyền Khung như im lìm đắm mình trong biển cả. Ngược lại, sự hòa mình này là cả một cuộc vận động không ngừng góp phần vào cơ tiến hóa của vạn vật vạn linh..■
__________________
II. PHÁP MÔN TAM CÔNG
- DẪN NHẬP
- TU GIẢI THOÁT THEO PHÁP MÔN TAM CÔNG
- A. CÔNG TRÌNH
- B. CÔNG QUẢ ÂM CHẤT
- C. CÔNG PHU THIỀN ĐỊNH
- KẾT LUẬN
@@@
PHÁP MÔN TAM CÔNG [2]
Trong cuộc sống, chúng ta muốn có nhà để ở thì phải tạo dựng, hay muốn trở thành Bác sĩ, Kỹ sư… thì phải chịu khó học hành và luyện tập. Nói tóm lại, muốn có một tài sản hay muốn đạt được một chức danh nào đó thì chúng ta phải đầu tư công của vào đó và phải quyết chí đeo đuổi đến cùng mới mong thành tựu được.
Việc tu hành cũng vậy, muốn giải thoát mọi khổ trần để trở về ngôi xưa vị cũ hay về hội hiệp cùng Thầy thì phải dụng công tu hành và luyện tập, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao. Từ Nhơn Đạo đến Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo; hay từ Tùng khổ, Thắng khổ, Thọ khổ, Thoát khổ và Giải khổ để đạt đến cảnh tuyệt khổ của Tam kỳ.
Năm bậc tu trên là năm nấc thang, hay là năm lớp trong trường thi công quả của Thầy buổi Tam Kỳ Phổ Độ. Thầy dạy: “Khổ hạnh là nấc thang thoát chốn luân hồi”.
Mục tiêu của Tam Kỳ Phổ Độ là Độ tận chúng sanh thoát ly khổ hải để về hội hiệp cùng Thầy. Để thực hiện cơ tận độ này, Thầy dạy: “…Nếu chẳng đi đến trường của Thầy để đoạt thủ địa vị mình, thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ…”[3]
Do đó, người tu theo Tam kỳ phải biết kết hợp Công trình, Công quả và Công phu thiền định, trong quá trình tu tâm luyện tánh và lập công bồi đức của mình.
Tu giải thoát là tu theo giải pháp thoát ly mọi sự ràng buộc của Thân – Tâm do tham, sân, si và lục dục thất tình… làm cho điên đảo; và danh lợi quyền khiến cho ta mê mờ lạc lối:
“Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi;
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời”.[4]
Là pháp tu theo Tam Kỳ Phổ Độ gồm: Công trình, Công quả âm chất và Công phu thiền định.

Đạo Cao Đài hành lễ thời sơ khai tại Đền thánh TN.
1. CÔNG TRÌNH
Là quá trình tu tâm sửa tánh để tự hoàn thiện bản thân, để trở thành người có văn có chất, có cuộc sống thanh cao, đạo đức; có tác phong đạo hạnh của bậc chân tu. Muốn đạt được thì người tu phải:
“…Quên mình làm nên cho người”
Hay:
“Tôn trọng người như Trời với Phật
Thương yêu hết thảy chúng sanh thành”.
1.2. Dõng mãnh trên bước đường tu thân lập đức
Người tu phải thoát ra khỏi bản chất yếu hèn, buông thả. Không thuận hành theo thất tình lục dục để trở nên người giàu nghị lực. Nghịch hành chuyển hóa mọi cám dỗ của tham, sân, si và thập tam ma, trở lại chân thiện mỹ.
1.3. Phải thành khẩn học tập rèn luyện để được minh mẫn và trí tuệ uyên thâm
Người tu phải thoát khỏi cảnh ngu dốt, tối tăm để trở nên sáng suốt minh mẫn, khôn ngoan, hiểu biết. Từ đó mới phân biệt đường tà, nẻo chánh, điều tốt lẽ xấu, điều thiện việc ác hầu tránh mọi nghiệp trần; tháo dần dây oan nghiệt của nhiều đời nhiều kiếp kết tập, có được như thế thì thân tâm mới được nhẹ nhàng thơ thới.
5. Phải tinh nghiêm giới luật
Người tu phải giữ giới luật nghiêm minh, trai lạc phải đủ chuẩn, thực hành Tam qui ngũ giới, Tứ đại điều qui, Năm lời khuyên cần yếu của Đức Giáo Tông (sau sớ nhập môn), Bài Thương yêu Thầy dạy và hai mươi bốn điều Thế luật dạy phẩm Hạ thừa và Trung thừa.
a. Trai giới và các bậc trai giới : Thể hiện đức háo sanh của Thượng Đế.
- Lục trai: 6 ngày (1,8,14,Rằm, 23,30)
- Thập trai: 10 ngày ( 1, 8, 14, Rằm, 18, 23, 24, 27/ 28, 29, 30).
- Thiên ngươn: 16 ngày ( 1, 4, 6, 7, 9, 14, Rằm, 16, 18, 19, 23, 24, 25, 27/28, 29, 30).- Phẩm Trung thừa, Lễ sanh.
- Trường trai – Phẩn Thượng thừa hay tự nguyện.
b. Tam qui
Qui y Phật, qui y Pháp, Qui y Tăng.
Hay là :
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng.
Có nghĩa là làm theo lời dạy của Thầy, tu theo Tân pháp của Thầy, tùng theo sự lãnh đạo của Đức Lý Giáo ông và Hội Thánh. Vì « Hội Thánh là hình thể của Đức Chí Tôn tại thế » và Thầy dạy :
« Phật Trời, Trời Phật cũng là Ta,
Nhánh nhóc chia ba cũng một Già ;
Thích, Lão, Gia Tô tay chưởng quản,
Thương dân xuống thế độ lần ba”.
c. Ngũ giới:Gồm năm giới cấm dưới đây:
Nhứt bất sát sanh.
Nhì bất du thiết (đạo)
Tam bất tà dâm
Tứ bất tửu nhục
Ngũ bất vọng ngữ.
d. Tứ đại điều qui : gồm 4 điều qui định quan trọng, muốn thành Tiên Phật không thể không tuân thủ bốn Điều qui này.
* Phải tuân lời dạy của Bề Trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ, lấy lễ hòa người, lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
* Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người, giúp người nên Đạo. Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền.
* Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với trên dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
* Trước mặt sau lưng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi lại khi sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua, ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung, pháp luật phải tuân. Đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
e. Năm lời khuyên cần yếu[5] (sau sớ nhập môn)
Hãy giữ giấy này và thực hành theo đó, ấy là giấy vào cửa đó vậy!
f. Bài Thương Yêu
Thánh Ngôn Thầy dạy: “Thầy là Cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu mới tạo thành thế giới và sanh sản các con. Vậy các con sản xuất nơi sự thương yêu, là cơ thể của sự thương yêu đó. Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình, càn khôn an tịnh, đặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau. Không thù nghịch lẫn nhau mới không tàn hại lẫn nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.
Kẻ nghịch của cơ sanh hóa là Quỷ vương. Quỷ vương là tay diệt hóa. Cũng như có sống của Thầy ắt có chết của Quỷ vương. Quỷ vương giục sự ghét mà tàn hại các con. Vì ghét nhau mà vạn loại mới khi nhau, vì ghét nhau mà vạn loại mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau thì là cơ diệt hóa.
Vậy Thầy cấm các con từ đây ví không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng phép ghét nhau. Nghe à!”.
g. Thế luật: gồm 24 điều (Phụ lục 1)
Qui định cho hai phẩm Hạ thừa, Trung thừa buộc phải học thuộc lòng và thực hành trong quá trình tu thân và hành đạo của mình.
Trong quá trình tu tâm sửa tánh, lập công bồi đức, từng bước ta phải rèn luyện thân tâm, trau dồi hạnh đức, lễ nghi đúng phép, cung kính nghiêm minh, nói năng ý tứ, việc trái Đạo không làm, lời vô ích không nói, tập đi đứng nằm ngồi cho đúng tôn ti trật tự lễ phép để được kẻ mến người yêu. Đừng buông thả như cái thuở nào, ham bay nhảy, ham ăn, ham nói, ăn nói hàm hồ thô tục. Dầu ở chỗ chật hẹp mà lễ nghi vẹn giữ, trật tự nghiêm minh, đứng ngồi đúng chỗ, ăn nói đúng phép đó là Đạo hạnh.
Trái lại, lễ nghi không học, trật tự không theo, không biết tôn ti lớn nhỏ dầu ở nhà cao, chùa lớn cũng ví như cảnh rừng hoang, cây cối um tùm, chông gai mờ mịt, ấy là vô Đạo.
Tóm lại, công trình là quá trình hoàn thiện hóa bản thân cả về hai mặt Thân và Tâm để trở thành con người gương hạnh, đạo đức. Muốn thực hiện tốt công đoạn này, hành giả phải biết kết hợp Công trình với Công quả âm chất và Công phu thiền định bổ khuyến cho nhau mới mong đạt kết quả hoàn toàn.
2.CÔNG QUẢ ÂM CHẤT
2.1. Công quả
2.1.1. Làm công quả là gì?
Là xả thân giúp đời, phục vụ nhơn sanh cả ba mặt: Dân sinh, Dân trí và Dân đức, dù lớn hay nhỏ giúp người mà không vì lợi ích cho mình đều gọi là công quả.
2.1.2. Tại sao tu giải thoát phải làm công quả?
Thầy dạy: “Người dưới thế này, muốn giàu thì phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo, phải có công quả”[6].
“Thầy đến độ rỗi các con là lập một trường công đức cho các con nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các con nghe K…con ôi! Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.[7]
Có nhiều người vào Đạo nôn nóng muốn thành Tiên, thành Phật tìm cách tu thiền để luyện nhị xác thân. Thầy dạy: “Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu thành mong. Vậy, muốn đắc quả chỉ có một điều là phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế này, thì tìm cách khác mà làm âm chất thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao”[8].
Có nhiều người biếng nhác trong việc làm công quả. Thầy cũng khuyên: “Vậy Thầy khuyên các con đứa nào có trí lực bao nhiêu khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cho cái điểm linh quang của Thầy cấp để cho các con lắm. – Các con hiểu à!”[9]
Và sau cùng Thầy dạy: “Thầy hằng nói cùng các con rằng: một trường thi công quả, các con muốn đến nơi cực lạc, thì phải đi tại cửa này mà thôi. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng các con, các con duy chỉ có tu mà đắc đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi. Nay, tuy các con chưa thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời của Thầy là chân thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn lìa khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm thì chừng ấy đã muộn rồi. Vậy, các con khá tuân lịnh dạy”.[10]
1.2.3. Có mấy cách làm công quả?Có hai cách: Thí tài và Thí Pháp.
- Thí tài là dùng sức lực hoặc tài sản của mình giúp người gặp lúc hoạn nạn, khốn khó, nghèo đói, bệnh hoạn… hay tu cầu bồi lộ… Tóm lại, dụng sức hoặc tiền bạc để làm từ thiện giúp đời (người) là thí tài.
- Thí Pháp là dùng lời nói hoặc sự hiểu biết giáo lý Đạo mà giúp cho người biết cải dữ về lành hoặc nhập môn vào Đạo tu hành, làm lành lánh dữ hoặc ấn tống kinh sách giúp cho người tu có được những kinh quý báu trì tụng… hoặc đóng góp vào việc xây cất Chùa, Thất… Những việc làm nêu trên tạo ra được kết quả tốt đẹp nơi cõi Thiêng Liêng, có thể tiêu trừ nghiệp chướng tiền khiên của nhiều đời, nhiều kiếp.
2.1.4. Làm công quả muốn đạt kết quả phải làm như thế nào?
Làm công quả muốn đạt kết quả hoàn toàn, tốt đẹp thì hành giả phái hội đủ các điều kiện sau:
- Phải có đức tin nơi Thầy, nơi Đạo để khi gặp khó khăn không chùn bước.
- Phải có lòng nhân ái, biết thương người, tự nguyện, tự giác, thiết tha với nó, xem nó là mục đích trong đời tu của mình. Để hết tâm trí của mình vào đó, nhứt là không được chấp ta ngã mạn thì mới mong đạt kết quả; và tránh được những chướng ngại dèm pha làm cho ta dễ nản lòng thối chí mà “bán đồ nhi phế”.
- Phải rèn luyện thân thể thường, để có sức khỏe thì mới tạo ra được nhiều của cải vật chất hay tiền bạc để tế chúng giúp cô. Nếu sức khỏe không tốt thì có mong chi mà làm công quả tốt được!
2.2. Âm chất
2.2.1. Thế nào gọi là âm chất?
Là việc làm thầm kín chỉ có chúng ta và các Đấng Thiêng Liêng biết mà thôi. Làm âm chất cốt là để tạo công phước đức nơi cõi vô hình để hưởng quả phúc về sau. Thầy dạy:
“Chư môn đệ đã lập minh thệ rồi, ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng, hay tùy tội lỗi mà giáng; song buộc mỗi đứa độ cho đặng ít nữa là 12 người.
“Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế này thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao”.
2.2.2. Âm chất và công quả khác nhau thế nào?
Làm công quả là làm công khai giúp cho người, có nhiều người biết; còn làm âm chất là việc làm thầm kín chỉ có mình và Thiêng liêng biết mà thôi. Thí dụ cúng tiền nơi Hộ viện để lấy biên nhận công quả, bỏ tiền vào tủ hành hương nơi Bửu điện là âm chất.
Tóm lại, công quả âm chất để phụng sự nhơn sanh là thể hiện đức tánh từ bi, bác ái. Càng làm nhiều công quả âm chất thì thể bi trong mỗi người chúng ta càng phát triển và cứ tiếp tục làm cho phát triển mãi, để cuối cùng hòa vào khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.
“Đài vân quan võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần”.[11]
Điều này có nghĩa là chúng ta đã đạt đến mức cuối cùng của nấc thang tiến hóa về hội hiệp cùng Thầy. Vì Thầy có dạy: “Công quả âm chất là nấc thang thoát khỏi chốn luân hồi”.
3. CÔNG PHU THIỀN ĐỊNH
3.1. Công phu – Cúng Tứ thời
3.1.1. Ích lợi của việc cúng Tứ thời
Thầy dạy: “Cúng Tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu cúng được thì lòng dạ nở nan, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật bịnh tiêu diệt”.
Thất Nương cũng dạy: “Lễ bái thường hành tâm đạo khởi”.
Việc cúng Tứ thời còn là phương khử trừ nghiệp chướng, cải sửa lỗi lầm. Thầy dạy: “Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày ấy xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa được yên tịnh, thì phải biết cải hóa, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm thì các con có lo chi chẳng sánh bì các bậc chí Thánh. Thầy mong rằng mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy, thì lấy làm may mắn cho nền Đạo, rồi các con sẽ đặng thong dong mà treo gương cho kẻ khác. Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia vui sớt nhọc với nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ đó”.[12]
3.1.2. Việc cúng Tứ thời phải thế nào?
Việc cúng kính phải thường xuyên mới giúp cho tâm hội tụ điển lành phát ra lời hay, ý đẹp, dễ thương, dễ mến để cảm hóa tha nhân vào đường chánh giáo.
Cứ mỗi thời cúng là thời gian lắng lòng, định tâm hướng về Thầy, Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng, từng bước dẹp bỏ phàm tâm, giải lần nhơn dục. Có như thế thì công trình tu tâm dưỡng tánh, lập hạnh cho mình mới mong được thăng hoa và đức tin nơi Thầy, nơi Đạo mới bền chặt vững vàng. “Đức tin cần yếu cho sự đắc Đạo”.
3.2. Thiền định – Tịnh luyện
Thiền định
Tịnh luyện là đỉnh cao của công phu, chỉ dành cho chư đạo tâm nào thọ giới từ thập trai trở lên mới được thọ truyền bửu pháp, ở bậc Hạ thừa và Trung thừa chỉ dạy sơ thiền mà thôi.
Tham thiền sau mỗi thời cúng, dần dần minh tâm và phát huệ. Có câu: “Biển có lặng thì Minh châu mới hiện”. Và “Trong lòng còn một điểm có, đừng mong thấy lẽ chơn”.
Hay là:
“Sự vật hết vướng nghiệp
Danh sắc hóa hư không
Chơn tâm thấy xuất hiện
Phật Tánh sẵn nơi lòng.”
Việc tịnh luyện sau thời cúng để kiểm điểm bản thân, lẳng lặng thân tâm sao cho được thuần lương, hiền đức. Cứ thường xuyên luyện tập, càng ngày càng yên tĩnh, càng lúc càng sáng ra, giúp ta biện phân được chánh tà, thiện ác cũng như tội phước. Nhờ đó mà công trình tu tâm dưỡng tánh của ta đạt được kết quả và công quả âm chất cũng nhờ đó mà càng lúc càng nâng cao để giải trừ nợ tiền khiên, oan gia trái chủ; từng bước nâng mình lên nấc thang cuối cùng để được giải thoát khổ trần hay về hội hiệp cùng Thầy khi công viên quả mãn.
Tịnh luyện
Tịnh luyện là tu luyện thân tâm theo một pháp môn gọi là thực hành đạo pháp.Theo Tân pháp Cao Đài, tịnh luyện từ cấp sơ cơ đến thượng thừa đều dựa trên căn bản thân tâm an định, thần khí giao hòa bằng cách điều thân, điều tâm, điều tức (Thân ngồi yên vững vàng; tâm không nghĩ ngợi; ý dẫn hơi thở điều hòa). Đó là ba điều kiện đầu tiên, nhưng hành giả phải còn thực hành chơn pháp có công dụng chuyển hóa tinh-khí-thần tức tam bửu của bản thân mới có kết quả dưỡng sinh cơ thể và tiến hóa tâm linh
Muốn luyện đạo, phải vào tịnh thất có chức sắc truyền đạo của Hội Thánh chỉ dạy phương pháp cụ thể dành cho mỗi cấp bậc từ thấp lên cao. (không tự ý thực hành sai đạo pháp rất tai hại).
Tóm lại, tham thiền, nhập định, luyện đạo là con đường tu thiên đạo giải thoát. Theo Tân pháp Cao Đài, tu luyện đạt đạo sẽ trở nên bậc chân tu gương mẫu; khi thoát xác được Thầy ban quả vị nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
C. KẾT LUẬN
Qua trình bày trên việc tu tâm luyện tánh là một quá trình của sự kết hợp tam công, có kết hợp được tam công thì mới mong đạt Đạo và giải thoát hoàn toàn.◙
__________________
III. SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
1. Phục hồi Nhân bản, tạo thế Nhân hòa đi đến Đại đồng nhân loại :
KẾT LUẬN
@@@
SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Cách đây hơn 90 năm[13], khi Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
1.Đích thân Đức Thượng Đế khai đạo lập đạo.
Chúng ta đều biết, khi Đức Thượng Đế khai đạo và lập đạo, Ngài xưng là "Cao Đài Tiên Ông" và mối đạo Ngài lập ra gọi là "đạo Cao Đài". Do đó theo ước lệ thế gian, có thể xưng tụng Ngài là Giáo chủ Đạo Cao Đài, nhưng đừng vô tình đồng hóa Đấng Chúa Tể càn khôn, với ngôi giáo chủ; đồng thời đừng tôn giáo hóa, địa phương hóa cơ cứu thế đặc biệt lớn rộng chưa hề có.
Một cơ cứu thế do chính Đức Chí Tôn hoằng hóa không thể xem như công cuộc truyền giáo thông thường như các tôn giáo xưa nay đã làm. Đây là thời kỳ "hoằng khai Đại Đạo" là cuộc vận hành của thiên cơ. Cho nên sứ mạng này phải là Sứ mạng Đại Đạo.
Hai chữ "Đại Đạo" không phải để tự tôn, để đề cao mà do bởi những đặc tính hằng hữu bất biến, tính phổ quát và toàn diện của THIÊN ĐẠO (ĐẠO TRỜI).
Đức Chí Tôn đã khẳng định điều đó khi Ngài dạy :
"Các con ôi ! Thầy là Chúa tể càn khôn sinh ra muôn loài vạn vật (qua) bao nhiêu cuộc tuần hoàn, dinh hư tiêu trưởng, đó là sự mầu nhiệm của Thầy đã định sẵn. Vì vậy mà đến buổi hạ nguơn, Thầy đến xứ Việt Nam này để khai đạo, kêu gọi các bậc nguyên nhân hãy sớm lập công bồi đức hướng dẫn toàn thể sanh linh sớm tĩnh tu để về cõi trường tồn chánh giác, hoặc hưởng đời Thượng nguơn Thánh đức" (01.01. Ất Tỵ 1965)
Thiên Đạo vận hành theo qui luật tuần hoàn trong đó vạn vật vạn linh phát triển theo chu kỳ "dinh hư tiêu trưởng". Đức Chí Tôn khai đạo kỳ ba là thực hiện cơ qui nguyên ở cuối chu kỳ tiến hóa. Do đó, cơ đạo Kỳ ba này là công cuộc thực hiện sứ mạng Đại Đạo bởi vì nó ứng hiện Thiên Đạo, Thiên Luật mà Đức Chí Tôn gọi là "sự mầu nhiệm của Thầy đã định sẵn". Hơn một lần Thầy đã xác định cơ qui nguyên ấy.
"Đạo là con đường duy nhứt cho vạn linh sanh chúng từ Thầy ban phát đến thế gian và từ thế gian các con trở lại Thầy. Thầy là Hư vô chi khí thì Đạo cũng đồng nghĩa đó thôi. Nên chi trong thời kỳ hạ nguơn chính mình Thầy dùng khí Hư Vô trực tiếp hữu hình đến thế gian để dẫn dắt thâu hồi những điểm linh quang Thầy đã cho xuống trần gian trở về Khối Đại Linh Quang" (Ngọc Minh Đài, 29.12 Bính Ngọ, 02.02.1969)
Mục tiêu này rất lớn laonhưng khả thi vào thời Tam Kỳ Phổ Độ do đặc ân đại ân xá của Đức Thượng Đế, do chánh pháp Thầy truyền, do tiến bộ của thế giới ," Nhân loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận thức", do khát vọng giải thoát của nhân sanh.
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy : "Quyền pháp Đạo thực thể cứu thế phải có trách nhiệm trên toàn thể nhân loại. Không phải chỉ giải quyết vấn đề tâm linh, chính là giải quyết toàn diện cá thể con người"
Như thế "tận độ" có nghĩa là cứu độ toàn diện cá thể con người và toàn thể nhân loại. Toàn diện tức gồm đủ hai mặt nhân sinh và tâm linh, toàn thể tức không bỏ sót một thành phần căn cơ nào.
Mục tiêu này được thực hiện bằng cách vận dụng quyền pháp của Đại Đạo hiệp nhứt vạn sanh tổng hợp tinh hoa cổ kim của nhân loại, đem lại thái hòa cho toàn thế giới.
Thếl à Thượng Đế + Đạo + vạn sanh + văn minh nhân loại
lập thành sức mạnh của Sứ Mạng Đại Đạo.
Nên Thầy đã dạy :
"Thầy sắp cuộc dinh hoàn tái tạo,
Dụng huyền linh Đại Đạo vận hành;
Quyền Thầy hiệp cả vạn sanh,
Đông Tây Kim Cổ lập thành tương lai". (CQ, 15.02.Quí Hợi; 29.03.1983)
1. Phục hồi Nhân bản, tạo thế Nhân hòa đi đến Đại đồng nhân loại :
- Về mặt nhân sinh, Đại đồng nhân loại là một lý tưởng của thế giới, một ước vọng của loài người mà cũng là mục tiêu của Sứ mạng Đại Đạo. Gọi là lý tưởng hẳn nhiên không thể đạt đến một cách dễ dàng. Tuy nhiên Ơn Trên đã nói không phải Đức Chí Tôn cấy lúa trên tảng đá hay trao quyển binh thư cho người mù chữ. Bởi vì Ngài biết rằng con cái Ngài đã thừa hưởng được cái vốn liếng quí giá của Ngài từ lúc ra đi. Chỉ còn vấn đề là biết vận dụng, khai thác nó ra sao để mọi người đều có thể góp phần vào sự nghiệp chung của toàn cõi nhân sinh.
Vốn liếng ấy chính là Nhân bản.
Sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ chọn khâu đột phá để thực hiện "thế đạo đại đồng" là phục hồi Nhân bản bởi vì con người đã vô tình hay hữu ý đánh mất cái bản vị cao quí ấy. Do say sưa men đời, đắm chìm trong dục hải, hoặc ngây ngất trên ngôi hư danh ngã mạn.
Nên Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy : " Cái bản vị cao quý nhất của con người đối với vạn vật vạn linh cũng là cái rất quan trọng cới chính nó trong cuộc sống toàn diện, là sống theo đúng bản vị của con người trong ý nghĩa bất tử bất biến [...] nhưng chính nó đã biến thái rất nhiều trong màn đêm lục thức mà cứ ngỡ rằng vẫn còn rực rỡ huy hoàng đẹp đẻ như cánh bướm, như hoa tươi, trong muôn ngàn tiếng ngợi khen vô nghĩa hão huyền" (Cơ Quan, 15.4 Tân Dậu,1981)
Giáo lý Đại Đạo cảnh tỉnh con người trở về Nhân bản bằng cách :
- Nhắc nhở đẳng cấp tiến hóa của con người đứng trên vạn vật, vạn vật hiện sinh bằng bản năng và bằng thú tánh, nhưng con người có thêm trí năng và thiên lương (lương năng)
“ Người xứng người đứng trong hoàn vũ,
Người nên người là chủ lấy thân;
Người là muôn mặt cân phân,
Lý tình gồm đủ, hình thần câu diêu. “
(Đạo Học Chỉ Nam- Nhân sanh nhất quán)
- Con người là một chủ thể đã tiến hóa qua con đường gian khổ diệu vợi bằng vô lượng kiếp mới đạt đến địa vị gần với Trời, nhưng vẫn phải học hỏi, trau giồi, phụng sự để tiếp tục tiến hóa đến tận cuối đường là cõi thiêng liêng bất diệt. Thế gian chưa phải là giai đoạn cuối cùng của con đường tiến hóa. Nhưng cuộc sống thế gian là điều kiện để tiếp tục tiến hóa. Nếu tự mãn hay bất mãn ở cõi này đều bị trở ngại hoặc thoái hóa.
“ Xét tình trạng nhân sanh xã hội,
Biết tùy thời thay đổi tiến tu;
Cùng nhau vẹt sạch áng mù,
Dắt dìu ra khỏi trần tù bất công. “
(ĐHCN.- Nhân sanh nhất quán )
Đức Quan Âm Bồ Tát có dạy : "Đời là cõi tạm, thật vậy. Đạo là sanh hóa, cũng thật vậy. Cũng trong luật tắc tài thành của Đức hiếu sanh, đã ban phát cho nhân loại đầy đủ bộ máy tối linh để người giác ngộ biết đem tự thể sở sanh với vũ trụ tuần hoàn mà tìm hiểu đời sống, tức đạo lý [...] Tự tánh thiên nhiên không làm cho cuộc đời là giả tạm, mà chính chỗ dục vọng của con người mới biến đổi là tạm bợ mà thôi " (Trúc Lâm Thiền Điện, 20.10 Quí Sửu, 1973)
- Con người đương nhiên mang lấy sứ mạng vi nhân khi sanh ra làm người. Thật vậy, con người được Tạo Hóa un đúc, sinh thành là để góp phần chung tay sáng tạo tô điểm cuộc nhân sinh đồng thời hoàn thiện bản thân, phát huy Nhân bản đến mức chơn nhơn thánh thiện. Con người là một tuyệt tác của Tạo Hóa nhưng không phải là một pho tượng mỹ thuật để ngắm nhìn, ngược lại giá trị kỳ diệu của nó ở chỗ nó vẫn tiếp tục tạo tác không ngừng để phụng sự cho cuộc tiến hóa chung của đồng loại và vạn vật.
Đức Quan Âm Bồ Tát từng nhắc nhở :
"Con người vừa lọt lòng mẹ là đã thọ ơn của đất trời, của nhân loại. Nếu không làm hoặc để lại một sản nghiệp tinh thần tốt đẹp gọi là trả ơn đất trời, đáp nghĩa nhân loại, đó là hàng ký sinh trùng không hơn không kém, chớ còn chi gọi là hàng tối linh trong vạn vật" (Cơ Quan, 15.9 Quí Sửu, 1973)
Và Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo cũng khẳng định sứ mạng vi nhân : "Mỗi người đều có sứ mạng riêng của mỗi người, tất cả nhân loại đều là sứ mạng trong trường tiến hóa này" (Cơ Quan, 18.01 Tân Hợi, 1971)
Người đời đang sống, đang hoạt động trong những lĩnh vực, hoàn cảnh khác nhau, nhưng sống và hoạt động mỗi mỗi đều với ý thức nghĩa vụ của một nhân sanh, là đang ở trên nhân bản.
- Nhưng điểm đặc biệt quan trọng nhứt trong sứ mạng phục hồi Nhân bản của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là khai thông mối liên hệ giữa Người và Trời. Bởi vì Nhân bản không chỉ là trọng tâm của nhân tính mà tối yếu là hàm ẩn Thượng Đế Tính trong con người. Cho nên Nhân bản là điểm nối kết của Tâm linh với Nhân sinh. Sứ mạng Đại Đạo dạy cho con người tìm ra chiếc chìa khóa khai thông ấy ở nội tâm, tâm trung thanh tịnh thuần khiết.
"Trở lại lòng mình hỡi thế nhân,
Quay về Thượng Đế tính đơn thuần,
Không gây tham vọng không oan trái,
Nước mạnh nhà an bởi hợp quần "
(Đức Lê Đại Tiên-TGST1970-71)
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đã từng nhấn mạnh bí quyết tiến hóa của con người như sau:
"Con người, khi hiểu thông đạo lý, tìm được mấu chốt là chìa khóa liên hệ giữa người và Trời, thì con người sẽ tự tu, tự tạo, tự lập, tự tiến cho mình trở nên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật dễ dàng". (Minh Lý Thánh Hội, 02.6 Canh Tuất, 1970)
Các tôn giáo phát sinh từ Đại Đạo, trải qua lịch sử nhân loại trong mục đích cứu độ con người, đã chịu nhiều biến đổi làm xa cách chơn truyền của các bậc giáo tổ. Một khi đã phân hóa cùng cực, tôn giáo không thể thực hiện sứ mạng cứu rỗi nhân sanh nữa. Tôn giáo muốn giữ được bản chất nguyên thủy, đeo đuổi mục đích cứu độ thực tiễn và toàn diện, phải tùng theo qui luật qui nguyên phục nhứt, tức là phục hồi tinh thần Đại Đạo, nêu cao một giáo lý thuần nhứt dẫn dắt nhân sanh tiến hóa tại thế gian và giải thoát xuất thế gian, trở về nguồn gốc tâm linh là Đại Linh Quang.
Do đó, Khai Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ, Thầy nêu lên tôn chỉ :
" Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhứt."
Trong Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy dạy :
" Ngày nay, Thầy đến đây đem ba nền tôn giáo hiệp nhất lại tạo thành một nền tôn giáo lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó mà lánh cơ nạn khổ thảm sầu" (Đại Thừa Chơn Giáo, Trước tiết tàng thơ, 1956, trang 91)
Hiệp nhứt ba nền tôn giáo nói trên không có nghĩa là thống nhứt Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo thành một giáo hội là Cao Đài Giáo. Nhưng đó là sự tổng hợp Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo.
"Tam giáo qui nguyên" là sự biểu hiện một công cuộc hồi sinh chánh pháp của Đức Chí Tôn. Qui nguyên được Tam giáo thì chánh pháp sáng tỏ, bởi vì chánh pháp thị hiện ra ở chỗ Đắc nhứt của Tam giáo. Từ đó vạn giáo sẽ đều thấy sáng tỏ chánh pháp trong mỗi tôn giáo của mình để góp phần xây dựng con đường phản bổn hoàn nguyên cho nhân sanh.
Thế nên Thầy phán : "Thầy nhứt định qui nguyên phục nhứt"
(TNHT, Q1, Tây Ninh, 1973, tr.18)
"Chính mình Thầy đến chốn Nam bang,
Mượn đất đem gieo mối Đạo Vàng;
Tưới nước vun phân Nho Thích Lão,
Nâng cành sửa lá Pháp hòa Tăng"
Đường lối qui nguyên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là đặt một sứ mạng quyền pháp mở đầu cơ cứu độ kỳ ba : Sứ mạng Cao Đài.
"Trước xây đắp Cao Đài thánh đức,
Dụng Nam Bang làm mức phóng khai,
Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Năm châu, bốn bể hòa hài từ đây"
Chính hai chữ "phóng khai" cho ta khái niệm đầu tiên về quyền pháp. Quyền pháp là động năng phóng phát, chuyển hóa, vận hành Đạo vào tất cả các sở vật thực tại để thúc đẩy cơ tiến hóa tài thành từ vũ trụ vô biên đến vật loại tế vi.
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo định nghĩa một cách rốt ráo phổ quát " Quyền pháp là cơ, là lý, là phương định đưa tuyệt đối vào sở vật tương đối, chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt " (TGST 1968-1969, tr.88)
Cái "cơ" , cái "lý" có công năng thần diệu như thế không phải do cơ mưu hay lý trí, mà do quyền năng của tạo hóa đặt vào. Nên, Cao Đài là động năng của cơ qui nguyên để cứu thế, là ân điển của Chí Tôn trong Tam Kỳ Phổ Độ. Như Đức Giáo Tông đã xác định :
"Đại Từ Phụ dựng Cao Đài nơi vùng Đông Nam Á này để làm Quyền pháp. Chính sứ mạng quyền pháp này thúc đẩy mọi sở vật thực tại Tôn giáo kết thành thực thể "Đạo cứu thế" trong Tam Kỳ Phổ Độ"(TGST 1968-1969, tr.90)
Tóm lại, nếu trọng điểm thứ nhất của Sứ mạng đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là phục hồi nhân bản, là sứ mạng đối với con người nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, thì trọng điểm thứ hai đối với vạn giáo là sứ mạng qui nguyên để đủ quyền pháp lập đời thánh đức bằng cách :" Khêu tỏ lý đồng nguyên và qui nguyên, khai sáng tâm linh, đưa con người tôn giáo lên tầm vóc Đại Đạo, ngước mắt nhìn lên bầu trời to rộng, vượt ra đại dương trời nước bao la, chấp cánh bay bỗng khắp bốn phương trời để phục vụ nhân loại, phụng sự thiên cơ, làm theo lòng Trời Đất" (Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo).
3. Phổ truyền chánh pháp Đại Đạo Ban trao sứ mạng Đại Thừa.
Từ buổi ban sơ khai đạo, mục đích Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã nêu lên : "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát". Do đó trọng điểm thứ ba của Sứ mạng Đại Đạo, không thể thiếu được để lập thành cơ cứu độ toàn diện, từ xây đời Thánh đức đến giải thoát tâm linh, đó là sứ mạng phổ truyền Chánh pháp Đại Đạo.
Kể từ ngày mùng 1 tháng Giêng năm Tân Dậu (08.02.1921), khi Đức Cao Đài Tiên Ông gõ cơ ban lệnh cho người đệ tử đầu tiên:"Chiêu, tam niên trường trai"
để được thọ truyền đạo pháp, thì chánh pháp Đại Đạo đã được mở đầu cho Tam Kỳ Phổ Độ rồi vậy.
Đến đầu năm 1926 ( 25.2.1926) khi Đức Chí Tôn giải thích ý nghĩa Thánh tượng Thiên nhãn cho chư Tiền khai Đại Đạo, có dạy về Chánh pháp Đại Đạo như sau :
"Lập "Tam Kỳ Phổ Độ" này, duy Thầy cho "Thần" hiệp cùng "Tinh Khí" đặng hiệp đủ "Tam bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập thánh ....[...]... Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đặng đắc Đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn" (TNHT, Q 1, 1973, tr.12)
Đến ngày 07.4.1926 tại Vĩnh Nguyên Tự Thầy dạy Ngài Đầu Sư Lê Văn Lịch như sau :
"...Muốn trọn hai chữ phổ độ phải làm thế nào ? - Thầy hỏi - Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm này về theo Trung đặng đi truyền Đạo. Nghe và tuân theo" ( TNHT, 1973, tr.15)
Đến cuối năm 1936 (01.10 Bính Tý), khi ban Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, là quyển kinh đầu tiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ về Đạo pháp, Đức Chí Tôn đã nêu Thánh Ý như sau :
" Ngày nay Đạo đã trải qua "thời kỳ phổ thông" mà bước đến"thời kỳ giáo hóa" nên chi Thầy mới giáng một pho " Đại Thừa Tâm pháp" để cho các con tầm lối băng về,noi theo giáo lý của Thầy đây, chắc là thoát khỏi bến mê bể khổ "(ĐTCG, Trước tiết tàng thơ, chương 24, tr.116)
Thầy lại dạy tiếp :"Vì con người đã quá trầm luân thống khổ, nên chính mình Thầy là Ngọc Hoàng Thượng Đế đã động mối từ tâm, cũng vì tánh đức háo sanh mà chẳng nở để cho con người tiêu diệt, mới rọi lằn điển quang giáng cõi trần, cốt lập Tiên Thiên Đại Đạo, qui nguyên Tam giáo và dụng tâm pháp truyền chơn mà độ rỗi các con " (ĐTCG, ch.26,tr.124)
Như thế song song với cơ phổ độ công truyền thì cơ tâm truyền chánh pháp cũng được hoằng hóa để cứu độ nguyên nhân. Trong thời kỳ này Thầy giao chánh pháp cho tay phàm, tức Thầy là Chơn Sư tối cao, duy nhứt, nhưng Thầy cũng ban quyền pháp cho hàng thiên ân học tu thiên đạo để thọ nhận Sứ mạng đại thừa.
Thiên đạo đại thừa là pháp môn tự độ độ tha. Trong Thiên đạo giải thoát có sứ mạng đại thừa. Trong Sứ mạng đại thừa phải thực hành Thiên đạo.
"Thiên đạo trường lưu khắp vạn loài,
Chuyển cơ tiến hóa nhiệm mầu thay;
Đại thừa sứ mạng hành thiên đạo,
Nào quản Hè Đông nẻo dặm dài"
( Đông Lâm Tiên Trưởng, 15.10 Đinh Tỵ, 1977)
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy rằng : " [...] Người tu học vào hàng Thiên Đạo Đại Thừa là đã lập tâm giải thoát, mà chỉ những con người biết giải thoát mới thấu hiểu Thiên Đạo để chấp nhận sứ mạng Đại Thừa" ( CQ, Rằm.6. Bính Thìn, 1976)
Tuy nhiên, trên mục tiêu tận độ tân pháp Cao Đài được phổ truyền bằng Tam công để người tu mọi căn cơ đều có thể tu tiến toàn diện, Đức Vô Cực Từ Tôn từng ưu ái dặn dò đàn con giác ngộ rằng :
"Nay Tam Kỳ Phổ Độ, Trời hé máy thiên cơ vạch đường chỉ lối cho tu, ráng tập luyện công trình, công quả, công phu, thì chắc chắn một kiếp sẽ được thành công đắc quả". (CQ, Rằm- 02 Đinh Tỵ, 1977)
KẾT LUẬN
Nói một cách khái quát, Sứ mạng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là sứ mạng cứu độ toàn diện cá thể con người và toàn thể nhân loại.
Nhằm thực hiện Sứ mạng ấy, Đại Đạo đã và đang tiến đến ba mục tiêu :
Và ai là người thực hiện Sứ mạng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ?
- Đức Thượng Đế chăng ? _ Phải nhưng cũng không phải. Vì Đức Thượng Đế là Đấng ban trao Sứ mạng , vận chuyển thiên cơ và đặt định tôn chỉ mục đích của Đại Đạo cho cơ cứu độ Kỳ Ba.
- Đạo Cao Đài chăng ? _ Đương nhiên Cao Đài có SMĐĐTKPĐ, nhưng không phải duy nhất Cao Đài có sứ mạng nầy, vì trước tiên Cao Đài là động năng Quyền pháp thúc đẩy tất cả những ai, những gì hữu ích cho công cuộc tái tạo dinh hoàn tham gia vào sứ mạng.
- Các bậc Thiên ân hướng đạo chăng ? - Phải nhưng không phải chỉ có các bậc hướng đạo, mà tất cả những người “ biết Thầy hiểu Đạo “
Chúng ta cần nhớ rằng, Sứ mạng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Sứ mạng Thiên Nhân hiệp nhứt rất đặc biệt trong Tam Kỳ Phổ Độ. Nó không phải là sứ mạng của một tôn giáo, tại một địa phương để gieo truyền một đức tin làm thế tựa tâm linh đơn thuần.
Kể từ khi Thiên Nhãn thị hiện, rồi danh hiệu " Ngọc Hoàng Thượng Đế Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát " được xưng ra tại thế gian lần đầu tiên và người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài đắc đạo tại tiền, cái trục “Thiên nhơn hiệp nhứt” đã nối liền trung tâm vũ trụ với trung tâm con người để thi hành sứ mạng phổ độ kỳ ba.
Tất cả những nguồn năng lực cứu độ và những đối tượng được cứu độ sẽ qui về trục thần quang này. Đó là trục vạn linh hiệp với Chí linh, chuyển nhân loại vào thế pháp tái tạo dinh hoàn, trong đó mỗi con người đã phục hồi Nhân bản thể hiện đầy đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín trở thành một gút lưới của toàn mạng lưới rung động không ngừng, "sửa loạn thành trị, đổi cùng thành thông, chuyển bỉ thành thới".
Do đó Tam Kỳ Phổ Độ không có giáo chủ hữu hình nhưng mỗi người con tin của Thượng Đế nếu chưa là một Thích Ca, một Khổng Tử, một Jésus cũng phải là một Ca Diếp, một Nhan Hồi, một Pierre... Có như thế tôn chỉ mục đích và các trọng điểm sứ mạng kỳ ba mới có thể hoàn thành được.
Cho nên Đức Thượng Đế Khai Minh Đại Đạo đồng thời khai minh chân giá trị con người thực hiện sứ mạng vi nhân , nhận lãnh sứ mạng đại thừa, tham dự vào Thiên cơ, nhờ đó đại cuộc Tam Kỳ Phổ Độ có cái sức mạnh phi thường bao quát Thiên thượng và thiên hạ, cải hóa con người, tái lập cuộc đời, thúc đẩy tiến hóa tâm linh trở về cứu cánh.
“ Một ánh linh quang tỏa khắp cùng,
Khai minh Đại Đạo gội nhuần chung;
Soi đường chánh giáo kỳ nguơn hạ,
Mở lối Tiên thiên buổi cuối cùng.
Đem mảnh can trường làm đuốc tuệ,
Một dòng chơn lý định thời trung;
Dầu cho sứ mạng sau hay trước,
Hãy nhớ thiên ân thuở chín trùng. “
( Hội Đồng Tiền Bối Tiền Khai ĐĐ.- CQ, Rằm.10 Kỷ Mùi 1979)
___________________________
IV. MỤC ĐÍCH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
“THẾ ĐẠO ĐẠI ĐỒNG
THIÊN ĐẠO GIẢI THOÁT”
1,.Ý NGHĨA CỦA MỤC ĐÍCH “ THẾ ĐẠO ĐẠI ĐỒNG “ TRONG TKPĐ
“Thế đạo đại đồng” (TH.ĐĐĐ) là một vế trong tòn bộ mục đích “Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thóat” của Đại Đạo TKPĐ.
Thế đạo là đường lối thực hiện đạo lý để hòan hảo hóa xã hội; hoàn hảo hóa nhắm mục tiêu một thế giới đoàn kết hòa bình vì sự sống và tiến bộ của tất cả các dân tộc gọi là đại đồng.
Thiên đạo là đường lối thực hiệnthiên lý hay đạo pháp của người tu, nhắm mục tiêu dưỡng sinh thể xác và tiến hóa tâm linh, gọi là giải thoát.
2.Ý NGHĨA HAI CHỮ “ĐẠI ĐỒNG”
2.1.Đại đồng: với nghĩa hẹp là sự giống nhau của những cá thể trong một toàn thể. Phản nghĩa của nó là dị biệt. Nghĩa rộng là cùng có chung những yếu tố căn bản, nhưng có thể khác nhau về tiểu tiết. Trong ý nghĩa này, người ta nói: “đại đồng tiểu dị”
.Đại đồng không hẳn là “đồng nhất”. Theo tự điển triết học, “ người ta nói hai đối tượng A và B rằng chúng là đồng nhất, nếu như và chỉ nếu như, tất cả các đặc tính (và các quan hệ) tiêu biểu cho A thì cũng là tiêu biểu cho B và ngược lại” (Tự điển triết học, NXB Tiến Bộ Mat- cơ- va,1986, tr.189). Nhưng trong thực tế không bao giờ có những đối tượng tuyệt đối đồng nhất.
2.2.Vậy hai chữ “đại đồng” trong mục đích “Thế đạo đại đồng” vừa có nghĩa là bình đẳng, vừa là đồng chung một nguồn gốc, chung một bản chất, một lý tưởng.
Và “Thế đạo đại đồng” là công cuộc phát huy công dụng của những điểm chung ấy của nhân lọai để đời sống xã hội được bình đẳng, không phân biệt đối xử, không vị kỷ độc tôn, mọi người thương yêu nhau, hợp tác tương trợ nhau . . .
2,3.“Đại đồng” trong “thế đạo đại đồng” thuộc về “tâm đại đồng” hay tinh thần đại đồng giữa người và người, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác.
“ An bang tế thế lắm người mong,
Ngặt nỗi nhân tâm chẳng đại đồng”
( Lê Đại Tiên, NMĐ, 13-6-1970)
Tâm đại đồng nơi mỗi người là sự xác định giá trị chung nhất của loài người, tức nhân bản; xác định quyền cơ bản nhất là quyền sống và sống bình đẳng; xác định lý tưởng chung nhất là tiến bộ, tiến hóa toàn diện.
3.. ĐƯỜNG LỐI THỰC HIỆN ĐẠI ĐỒNG
3.1. Quẻ “Đồng nhân” trong Dịch học giải thích rất rõ ràng ý nghĩa và đường lối thực hiện đại đồng:
a)- Có chung một bản thể là đại đồng
b)- Tương ứng với nhau là đại đồng
c)- Tương giao rộng rãi với mọi người mọi nơi là đại đồng
d)- Cùng nêu cao một lý tưởng là đại đồng
3.2. Nguyên tắc thực hiện đại đồng trong cộng đồng xã hội.
a)-Yếu tố con người là nguyên tắc hàng đầu: xây dựng lại mẫu người hoàn thiện với những đặc điểm:
_ trung chính,
_ minh triết,
_ dũng cảm,
_ thúc đẩy mọi người cùng tiến bộ.
b)- Có kế họach cộng đồng:
_ Nhắm mục tiêu cơ bản nhất là phục vụ con người của các cộng đồng xã hội, tức đối tượng của thế đạo.
_ Chính mỗi phần tử của cộng đồng có thể tham gia được và có hiệu quả vào kế họach.
_ Vận dụng mọi khả năng và phương tiện dễ có, dễ làm, mọi phương cách dễ hiểu để mọi người ở mọi nơi đều có thể thực hiện những chương trình có lợi ích chung.
c)- Có sự tương ứng tương cầu giữa các cộng đồng hay các quốc gia.
Ai là kẻ thờ Trời kỉnh Phật ?
Lo tu bồi âm chất quả công;
Ước ao chủ nghĩa đại đồng,
Khá tua tiến bước gánh gồng việc chung.
( Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn,Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời, mùng 3 tháng Chạp Giáp Thìn (5-1-1965)
Chùa, Thất đều hoài bão nhơn sanh;
Con đừng nê chấp cạnh tranh,
Rằng tà, rằng chánh rồi sanh giận hờn.
( Đức Chí Tôn, Nam Thành Thánh Thất, Tuất thời, 01.01.Ất Tỵ (2.2.65)
c) Vong kỷ vị tha ( xem mình là mọi người, mọi người là minh.)
Kìa thế giới ngày nay biến loạn,
Bởi người đời xao lãng lòng nhân;
Kìa là tôn giáo tranh phân,
Bởi người thiếu lẽ tình thân đại đồng.(Đức Chí Tôn, sđd)
d) Tạo thế nhân hòa ( thế chân vạc Nhân bản-An lạc-Tiến bộ)
Khắp nhân loại cùng tình huynh đệ,
Một giống nòi là thể tay chơn;
Không thương thì chớ nên hờn,
Đứa khôn, đứa dại, quả nhơn đền bù.
( Đức Chí Tôn, sđd)
Nói cho dễ hiểu, thì mục đích của đạo Cao Đài nhằm hoàn thiện cả hai phần trong một con người và đối với cả xã hội lNHÂN SINH vá TÂM LINH. Nhân sinh thuộc về phần XÁC: thể xác, đời sống nhân sinh, sinh họat xã hội. Tâm linh thuộc phần HỒN: tinh thần, tư tưởng, sinh họat tâm linh, tín ngưỡng, đạo pháp (tu luyện). Cao Đài thực hiện mục đích “Thế đạo đại đồng” theo phương châm NHÂN SINH – NHÂN TRÍ - NHÂN ĐỨC
KẾT LUẬN
Tuy “Thế đạo đại đồng” là mục đích được nêu lên từ lý tưởng tôn giáo, nhưng thật ra nó mang tính chất toàn cầu. Điểm đặc biệt là nêu lên mà trước tiên chính mình nhận lấy sứ mạng. Sứ mạng này không phải là việc làm của kẻ ngồi trên thuyền vớt người đắm đuối mà phải chuẩn bị cho mọi người cái khả năng vượt qua sông. Đó mới là đại đồng thật sự.
Cho nên, “thế đạo đại đồng” là mục tiêu của tất cả cộng đồng xã hội, trong đó người giác ngộ là những nhân tố đầu tiên. Tôn giáo hay không tôn giáo không phải là điều kiện tiên quyết để thi hành sứ mạng. Lương tâm và đạo lý là ngọn đuốc soi đường chung cho mọi người.
“ Đã là một nhân sanh tại thế,
Khó tránh điều dâu bể đổi thay,
Dọc ngang giữa cõi trần ai,
Phải đem đạo lý dựng gầy thế nhân.”
( Đức Lê Đại Tiên, TGST.1970-71-tr.27)
B. “THIÊN ĐẠO GIẢI THÓAT”
1. Định nghĩa
“Thiên đạo là đường lối giải thoát của người tu”(Thánh ngôn Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn)
Thiên đạo là tiến trình hành đạo và tu tập đạo pháp để chuyển hóa thân tâm con người trở nên thánh thiện, khả dĩ sống an nhiên tại thế và siêu thoát khi xuất thế.
Trong mục đích của ĐĐTKPĐ, phần “Thiên đạo giải thoát” tiếp sau phần “Thế đạo đại đồng” nhằm chỉ ra mục đích cứu độ một cách toàn diện về nhân sinh (cuộc sống thế gian) lẫn tâm linh (sự tiến hóa của linh hồn) cho toàn thể nhân lọai.
Theo giáo lý Đại Đạo, thiên đạo còn gọi là”Thiên đạo đại thừa” để nhấn mạnh nguyên tắc “tự độ – độ tha”, nêu lên sứ mạng đại thừa của người tu thiên đạo. Ơn Trên có dạy: “Kìa xem trời đất bao la che chở, không vì kẻ ác, không vì người thiện, không vì sự kính yêu của vạn loài, cũng không vì sự ghét bỏ của sự vật nào. Vẫn xuân hạ thu đông, vẫn mưa hòa gió thuận cho cây cỏ xanh tươi, non sông đẹp đẽ, nhơn loại an vui hạnh phúc. Thiên đạo là như vậy.[. . .]
“Người hành giả quyết tâm học chánh pháp đại thừa là có sứ mạng cao cả để thực hành Thiên đạo trong xã hội.” [15]
3. Thiên đạo đại thừa là con đường thực hành tâm pháp để đạt được nội tâm thanhtịnh, minh linh sáng suốt, hoằng dương chánh pháp.
“Từ chỗ sơ phát của tâm lần lần đến bực vô thượng chánh đẳng, chánh giác, không đòi hỏi người hành giả phải hy sinh mọi mặt như tự ngàn xưa đúng qui giới tu trì, chỉ cần hành giả có một tâm nhất như tiến đạo đến chỗ thâm sâu cùng lý tận tánh, giải thoát hết mọi ràng buộc xung quanh, mới được quang minh khai phóng nhìn suốt sự vật để hòa mình tu kỷ luyện công, hòa mình cảm hóa nhân sanh, hoằng dương chánh pháp đúng theo thời kỳ nguơn hội ân xá của Đức Chí Tôn.” [16]
Vào thiên đạo tức là cầu tu giải thoát. Muốn tu học thiên đạo, người tín hữu phải tự hòan thiện bản thân như sau:
Ơn Trên dạy về tánh mạng như sau:
“Con người có tánh mạng. Tánh là thiên tánh, mạng là thiên mạng, hai tú khí âm dương tạo thành là bản thể của Thiên địa vạn vật. Nếu biết tu tánh, đừng để tánh bị muội mê bởi tham dục che lấp vì danh lợi tình tiền. Những thứ vật vô thường đã gây cho con người biết bao thảm họa triền miên từ kiếp này sang kiếp khác.
Biết tu tánh thời không tham thì vẫn có mà ăn mà mặc; không tranh đấu mà vẫn có chỗ ở, không lăn thân vào chỗ đau khổ mà vẫn có địa vị con người. Do đó tu tánh là ánh linh sáng chói trong muôn ngàn nẻo thánh.
Còn biết luyện mạng là thiên mạng hằng tại, không thiên không lệch, không ô nhiễm tham dục, trên thuận cùng trời, dưới an vui bốn cõi, hòa mình khắp chốn, lòng dân là lòng ta, lòng ta là lòng Trời, sống thì thánh, thác thì thiêng. Oi ! nội thánh ngọai vương, sống hằng sống trong cõi thiên đàng cực lạc thì còn gì mơ ước nữa. Phật tiên cũng chỉ thế thôi.” [18]
“Dầu muốn hay không muốn thì tâm vật [vẫn] song hành, hai phương diện trong một con người. Lìa vật không có tâm, bỏ tâm không có vật. Thế nên sứ mạng đại thừa là thực tiễn cứu cánh vạn khổ chúng sanh hòa mình trong xã hội nhân loại.”[19]
Kết luận
Đức Chí Tôn từng dạy: “Các con, hay nói chung là nhân lọai, là những hột giống linh căn được chọn gieo vào vũ tru, được ban phát quyền tạo hóa để lập thành cuộc ngự trị cõi thế gian (mà các con gọi là đời), nguyên nhân là Lý, là Đại Đạo, là Thầy, là Cha chung của vạn lọai. Các con đã sanh trong Đại Đạo, hãy noi theo Đại Đạo mà thành về cõi Thượng thiên Vô cực”[20]
Do đó, Đức Chí Tôn khai Đại Đạo TKPĐ để cứu độ vạn linh thực ra là tạo điều kiện tối ưu để con cái của Ngài biết thực hiện công cuộc tiến hóa theo thiên lý hay qui luật của vũ trụ. Qui luật đó chính là qui trình vận hành của Đạo để thúc đẩy chúng sanh tiến hóa trở về bổn nguyên hay Bản thể qua hai giai đọan:
_ Nhập thế, thi hành sứ mạng làm người theo thế đạo để lập công bồi đức phụng sự nhân sanh.
_ Xuất thế, hướng về nội tâm, tu theo thiên đạo để quay về hiệp nhất với Thượng Đế Đại linh quang.
Nhờ thời kỳ đại ân xá trong TKPĐ, Đức Chí Tôn ban trao chánh pháp Đại Đạo, thực hiện mục đích “Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thóat” là cơ hội ngàn năm một thuở để kẻ giác ngộ biết tự độ độ tha. Người hữu duyên gặp đạo chỉ còn chuyên tâm chuyên nhất tuần tự tu hành theo Chánh pháp sẽ đạt đến cứu cánh một cách viên mãn.◙
* * * *
PHẦN ĐỌC THÊM
Diêu Trì Kim Mẫu, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý , Tuất thời Rằm tháng 2 Đinh Tỵ (3.4.1977)
“ . . .Các con ơi ! Phần đầu về kiếp sống các con tưởng nó là quan trọng, nhưng có dè đâu phần sau mới là tối quan trọng, các con có trở về nguồn được hay không, đó mới là phần tối quan trọng. Còn thân xác phàm tục của các con, dầu muốn dầu không, rồi một thời gian cũng phải tan rả, trả về cho tứ đại. Mẹ đã dạy các con khá nhiều trong mấy mươi năm, các Đấng Thiêng Liêng cũng đã dạy các con khá nhiều trong mấy mươi năm rồi, giờ đâyMẹ chỉ nhắc lại sơ sơ một vài điểm chánh có liên hệ đến kiếp sống nhân sinh và tâm linh của các con.”
_____________________
V. TÍNH DÂN TỘC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
TỪ BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC đến TÍNH DÂN TỘC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Bản thể đại đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam là gì?
Đối với dân tộc Việt Nam, có thể nói các cơ cấu:
*TÂM THỨC GIỐNG NÒI;
*TÂM THỨC LƯỠNG HỢP ÂM DƯƠNG
*TÂM THỨC THIÊNG LIÊNG và VŨ TRỤ;
*ĐỊA LINH TỔ QUỐC;
*VĂN HÓA DUNG HỢP;
*LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ
Tất cả kết thành Bản thể đại đồng dân tộc Việt Nam.
@@@
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con trai của Kinh Dương Vương.Vua [Lạc Long Quân] lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh con, phong con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (nước ấy phía đông giáp Nam Hải, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức Chiêm Thành), đóng đô ở Châu Phong (nay là huyện Bạch Hạc) chia nước làm 15 bộ…
“Cùng với việc thờ Lạc Long Quân, nhân dân vùng đất tổ cũng thờ người mẹ khai sáng giống nòi là bà Âu Cơ.
A.1.Tâm thức Âm Dương hay Lưỡng phân – luỡng hợp:
Nhiều nhà nghiên cứu nước ta cũng đã thấy yếu tố âm dương thể hiện ở họa tiết hoa văn trên mặt trống: cánh sao tượng trưng yếu tố dương, hoa văn “lông công” xen kẻ giữa các cánh sao tượng trưng yếu tố âm. Trong quyển “Trống Đông Sơn” do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1987)
A.2.Cộng với tâm thức lưỡng hợp là tâm thức thiêng liêng:
“Các tác giả cho rằng trống đồng là vật thiêng, làm trung gian giữa cõi sống và cõi chết, giữa con người và thần linh.” (Sđd, tr. 237)
. Đồng thời có tín ngưỡng cổ sơ thờ Trời Đất, với tâm thức “cha Trời, Mẹ đất”, “trời tròn, đất vuông”. Vuông, tròn là khái niệm âm dương lúc sơ khai, đồng thời cũng mang ý nghĩa cầu mong sự tốt đẹp.
Tục thờ Bàn Thiên không biết phát sinh từ thời nào . . .
A.3.Tâm thức về vũ trụ:
“Cũng có ý kiến cho hoa văn trống Đông Sơn là biểu hiện của một mô hình vũ trụ theo quan niệm của người xưa: mặt trống thể hiện cõi trời, cõi đất, tang trống thể hiện cõi nước., lưng trống thể hiện cõi âm.” […]
B.. TÂM THỨC ĐỊA LINH TỔ QUỐC
Ba núi thiêng vùng đất tổ
“Núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Dương.
“Núi Tản Viên , địa giới ở huyện Bất Bạt và Minh Nghĩa,
Còn núi Hùng , tương truyền là nơi xưa kia Hùng Vương dựng cung điện
C.VĂN HÓA DUNG HỢP
Nghiên cứu nền văn hóa nguyên thủy của người Giao Chỉ, các nhà khảo cổ học và dân tộc học cho rằng khởi đầu đó là những nét văn hóa phát sinh từ đời sống nông nghiệp.
Từ đó người Việt cổ có tục thờ Man Nương (man: mưa), để rồi đến khi Đạo Giáo du nhập vào, thì Man Nương trở thành Mẫu Man Nương, vị nữ thần giúp dân có được mùa màng sung túc, đời sống ấm no; và tâm thức sùng bái thiên nhiên trời đất trở thành tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện
D, TỪ BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC đến TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Từ tâm thức giống nòi Rồng Tiên, đến tâm thức lưỡng hợp Âm Dương – một ước vọng phồn thịnh hóa cuộc sống; tâm thức đơn sơ về vũ trụ: người vật xoay chuyển chung quanh trung tâm mặt trời (khảo sát mặt trống đồng Đông Sơn); trực nhận khí thiêng sông núi, địa linh đất tổ; bản năng dung hợp văn hóa; lòng yêu nước nồng nàn, tình đồng bào thắm thiết, niềm tin độc lập tự chủ với thiên hướng sùng bái thần linh, tín ngưỡng thờ Trời Đất… đã tổ hợp thành một Bản thể vô hình mà sở năng sở dụng có giá trị thống nhất tinh thần mỗi con dân nước Việt, để:
- Đoàn kết chiến thắng xâm lăng khi quốc biến,
- Xây dựng đất nước, phát huy văn hóa thuở hòa bình,
- Thăng hoa tâm linh trong cuộc sống nhân sinh an lạc.

Hình trên : Mặt trống đồng Đông Sơn
Chính bởi dân tộc Việt Nam có một Bản thể như thế nên đã được Đức Chí Tôn ban trao sứ mạng hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: “Các con là dân tộc Việt cũng như dân tộc khác sanh trưởng tại quả địa cầu này. Tình thương Tạo Hóa cũng ban đồng cho các con cũng như các con khác, nhưng dân tộc các con đã đau khổ quá nhiều, non sông tổ quốc các con đã bị dày xéo lâu đời. Nhưng các con trội hơn chúng về đức tin, lòng đạo đức ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành. Tình thương các con không thiếu, lòng hiếu hòa các con có thừa. Do đó, dân tộc các con mới hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” (Đức Chí Tôn, Thiên Lý Đàn, 19-12-1968)
Nên đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, chơn linh bậc cao tăng đời Lý, đức Vạn Hạnh Thiền Sư còn thắp sáng lại truyền thống đạo đức dân tộc:
Chuỗi dài ý hệ cõi Nam giao,
Thánh Đạo Nho Tông những sắc màu,
Đã có trường thi Tam Giáo trước,
Nhịp cầu nối tiếp nhịp theo sau.
Đó là Tam Giáo được đồng nguyên,
Về với ông cha một chiếc thuyền,
Thuyền đạo đóng bằng tư tưởng đạo,
Cho tròn danh nghĩa đấng Cao Thiên.
Bản thể đại đồng dân tộc không chỉ đơn thuần mang tính tôn giáo, ngược lại có đủ bản chất nhân sinh lẫn tâm linh. Thế nên bất cứ thời nào, hoàn cảnh nào, Việt Nam đều có thể vận dụng Bản thể ấy để tồn tại và phát triển:
Thiên hạ đua nhau kiếm đũa thần,
Để lo trị quốc với an dân,
Đũa mình sẵn có, cơm mình có,
Mượn chác làm chi nhục trí nhân.
Lần trang Việt sử mà xem,
Lạc Hồng văn hiến trước thềm đông phong.
Và:
Ngày nay Trời mở Đạo Nhà,
Cho hồn Nam Việt tinh ba kết thành.
Sở dĩ khi Đức Chí Tôn Thượng Đế khai đạo Cao Đài, gọi là “Trời mở Đạo Nhà”, chính vì đó không phải là cái Đạo xa lạ đối với dân tộc Việt Nam, mà Đạo ấy vốn đã sẵn có trong tâm thức, trong tiềm thức người con dân nước Việt.
Nhưng Cao Đài chẳng những là Đạo Nhà mà còn là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu độ tòan thể nhân loại trong đức hiếu sinh của Thượng Đế.
Thế nên, từ Bản thể đại đồng Việt Nam phát huy lên đạo Cao Đài để Cao Đài Việt Nam làm gạch nối liền với Bản thể đại đồng nhân lọai, thực hiện Cơ cứu thế kỳ ba:
Muốn cứu mình, cứu nguy thiên hạ,
Vững niềm tin Tạo Hóa chí công;
Trở về nguồn cội Tổ tông,
Đó là cái Đạo ở trong mỗi trò
D. TÍNH ĐẠO ĐỨC DÂN TỘC :
1. Tôn giáo có tính đạo đức là lẽ đương nhiên. Nhưng ở đây chúng tôi muốn nói đến tính đạo đức dân tộc, là tính đạo đức rất nhơn bản bắt nguồn từ truyền thống của Tổ tiên, mọc rễ trong gia đình, đâm chồi trong dân gian và lưu truyền bất biến trong dòng lịch sử của đất nước.
Có thể nói Đạo đức Cao Đài trước tiên là Đạo đức dân tộc, vì người Cao Đài luôn luôn nhắc nhở :
“Lần trang việt sử mà xem,
Lạc Hồng văn hiến trước thềm đông phong”.
Và :
“Ngày nay Trời mở Đạo nhà,
Cho hồn Nam Việt tinh ba kết thành”.
Trước khi nói đến những giáo lý cao siêu, người Cao Đài phải nói đến đạo lý yêu nước, yêu đồng bào.
“Một dân tộc tinh thần tự chủ.
Mấy ngàn năm uy vũ kiêu hùng,
Nam phương góc đất vẫy vùng,
Non sông một dãy muôn chung hải hồ.
Công tiền nhân cơ đồ tạo lập,
Cho cháu con bồi đắp giang san;
Giang san trên mãnh đất vàng,
Hai mươi mấy triệu Hồng Bàng còn đây”
(Cao Triều Phát, Nam Thành Thánh Thất
Đó là đạo lý thiết thân nhất của mỗi người Việt Nam, thế nên Đức Giáo Tông Đại Đạo đã nói rõ :
“Trở về nguồn cội tổ tông,
Đó là cái Đạo ở trong mỗi trò”
2.Điểm thứ hai trong tính Đạo đức dân tộc của Đạo Cao Đàilà phục hưng nền tảng đạo đức gia đình Việt Nam:
Nói đến đạo đức gia đình Việt Nam, thì vai trò người phụ nữ rất quan trọng. Đặc biệt còn thực hiện những quyển kinh riêng cho nữ phái mà căn bản là xây dựng đạo đức gia đình – Xin hãy nghe một đoạn kinh “Nhủ bạn nữnhi”.
Trao gương sáng gia đình Nam Việt,
Khêu đức tài gái liệt nhà Nam;
Chung đồng dội khắp kêu vang,
Danh kia chạm ngọc, khảm vàng, tiếng ghi.
3.Nối kết các tổ chức Cao Đài trong hoàn cảnh đất nước bị chiến tranh
4.Các Hội Thánh và các tổ chức Cao Đài đoàn kết trong thời kỳ phát triển đất nước và hình thành Tổ chức Liên giao qua hơn 15 năm hoạt động.
TỔNG LUẬN
Để minh họa TÍNH DÂN TỘC của Đạo Cao Đài, chúng tôi đã trình bày ba nét căn bản của TÍNH DÂN TỘC ấy là :
+ Tính văn hóa dân tộc.
+ Tính đạo đức dân tộc.
+ Tính tôn giáo dân tộc.
Qua ba nét ấy chúng ta có thể khẳng định Đạo Cao Đài có một sứ mạng to tát trong nền Văn hóa và đạo đức nước nhà. Đạo Cao Đài sanh ra trong cái nôi Việt Nam. Tiếng nói và chữ viết đầu tiên là ba tiếng “ A Ă Â “ của quốc ngữ Việt Nam thì từ đầu thế kỷ 19 đến nay văn hóa Cao Đài đã cùng với tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc, góp phần chuyển quốc ngữ la tinh thành quốc ngữ Việt Nam hiện đại làm một dòng thác mạnh mẽ của văn hóa nước nhà: dồi dào từ ngữ, phong phú âm điệu, hoạt bát văn chương, bao hàm đạo lý, súc tích tinh thần, đặc thù dân tộc. Thậtlà :
Nước của mình, tiếng mình thánh thót
Ổ chim hồng, sẻ đẻ sao đang ?
Thật vậy, bài học Việt Nam là một bài học muôn thuở cho thế nhân. Sức sinh tồn của nó, sự bền bỉ của nó, văn hóa của nó đã hợp thành một nền văn minh độc đáo được chứng minh là vĩnh cửu bất biến. Nên Đức Thượng Đế Cao Đài đã phán rằng :
“Trước xây đắp Cao Đài Thánh Đức,
Dụng Nam Bang làm mức phóng khai;
Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Nam châu bốn bể hòa hài từ đây“∎
___________________________
VI. THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT
Từ Luật Cảm Ứng đến thế Thiên Nhân Hiệp Nhất trong Tam Kỳ Phổ Độ
A. DẪN NHẬP
Hôm nay là ngày Lễ Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ, đồng thời là ngày kỷ niệm chu niên 45 năm hành đạo của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo. Như thông lệ, chúng tôi được vinh hạnh hầu chuyện với quý vị một đề tài đạo đức.
Như quý vị đã biết, Đức Thái Thượng Đạo Tổ là một trong Tam giáo Đạo Tổ mà Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tôn thờ dưới Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu.Ngài là đấng:
“Tiên thiên khí hóa Thái Thượng Đạo Quân,
Thánh bất khả tri, công bất khả nghị,
Vô vi cư Thái cực chi tiền,
Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng”
Tức nguồn gốc của Ngài là khí Tiên thiên, sự minh triết và công đức của Ngài không ai có thể nghị luận rốt ráo nỗi. Khi trời đất chưa sanh thì Ngài thuộc về Vô vi, trước khi Thái cực xuất hiện. Khi Thái cực bắt đầu sanh hóa, thì Ngài là đấng cao siêu hơn tất cả các đấng Tiên Thánh khác.
Theo truyền thuyết của các Đạo gia từ xưa thì một kiếp giáng trần của Đức Thái Thượng Lão Quân là Đức Lão Tử. Đức Lão Tử sanh vào khoảng TK.6 trước CN, sáng tác nổi tiếng của Ngài là quyển Đạo Đức Kinh, là một pho Đạo học hàm xúc chủ thuyết Vô vi và hệ thống Vũ trụ
quan-Nhân sinh quan siêu việt.
Nhưng trong kho tàng các thiện thư Tam giáo được truyền tụng nhiều đời từ các nhà Đạo đức học Trung Quốc, và được các học giả Tây phương nghiên cứu thì quyển kinh “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên” rất được tôn kính và truyền bá để mọi người tu tập, hành thiện. Ngày nay, ngay như trong Đạo Cao Đài, kinh Cảm ứng rất được quý trọng, sử dụng trong đời sống tu hành, như phái Chiếu Minh vẫn trì tụng hằng ngày, và được ứng dụng giảng dạy giáo lý Đại Đạo trong tất cả các Hội Thánh Cao Đài.
Một minh chứng cụ thể là thánh giáo Đức Diêu Trì Kim Mẫu đã từng xác minh tinh hoa của Đức Thái Thượng như sau:
“Các con ôi ! Hôm nay các con cử hành lễ kỷ niệm THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN, nhưng các con đã học được gì và thực hành được gì tinh hoa của THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN vào đời sống nhơn sanh và tâm linh của các con ? Không để các con do dự trả lời biện bạch, Mẹ nói mau cho các con biết: Một trong những tinh ba của THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN hay LÃO TỬ, đó là Luật Cảm Ứng. Chỉ có hai chữ cảm ứng này thôi, nhưng nó không phải giản dị như các con hằng tưởng, hằng định nghĩa và hằng giảng dạy cho huynh đệ tỷ muội các con thường nghe trong các buổi giảng. ” (CQPTGL, Rằm tháng 2 Đinh Tỵ ,1977)
B. LUẬT CẢM ỨNG: Vậy Luật cảm ứng là gì?
B.1.- Luật Cảm ứng là nguồn gốc của luật nhân quả
Mở đầu Thái Thượng Cảm Ứng thiên hay Kinh Cảm ứng, Điều1 (Minh nghĩa) hai câu đầu tiên đã nói ngay đến Luật nhân quả:
“Thái Thượng viết:
Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu,
Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình.” (Điều 1)
[Thái Thượng nói:
Họa phúc không có lối(cửa) mà do người tự triệu.
Báo ứng thiện ác như bóng theo hình.]
Cảm Ứng Thiên từ khi xuất hiện đã được vua chúa, quan lại và sĩ phu hoan nghênh vì tác dụng giáo hóa của kinh đối với phong hóa xã hội. Không ít vua chúa đã góp sức truyền bá bộ kinh này. Vào đầu đời Nam Tống, triều đình xuất tiền cho khắc in. Vua Lý Tông 理宗nhà Tống (cai trị 1225-1260) chấp bút viết tám chữ lớn (đại tự): «Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành» 諸惡莫作眾善奉行vào bìa một bản khắc in. (Lê Anh Minh,Tìm hiểu Cảm ứng Thiên, www.nhipcaugiaoly.com)
Tám chữ ấy lấy trong Điều 9. (Hồi quá) của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên:
“ Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh, sở vị chuyển họa vi phúc dã.”
(Đã từng làm điều ác, sau tự hối cải,
mọi ác không làm, hành mọi điều thiện;
lâu lâu ắt có điều lành, gọi là chuyển họa thành phúc vậy.)
B.2.- Luật cảm ứng giữa người với thần minh.
Ngoài luật “nhân quả báo ứng” mà Thái Thượng Cảm Ứng Thiên vận dụng để khuyến thiện hay cảm hóa, giác ngộ chúng sanh, luật Cảm ứng còn tác động trong mối tương quan giữa tâm thức con người với thần minh. Cảm ứng thiên viết:
"Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi. Nhi kiết thần dĩ tùy chi". Hoặc: “Tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi. Nhi hung thần dĩ tùy chi".
Và trong đạo, Ơn Trên thường nhắc nhở những người tín hữu đang hành đạo:
“Hễ cảm thì ứng ngay. . .Hễ ý niệm chánh được tiếp lằn điển các Đấng nơi cõi cao thượng, còn trái lại vọng niệm ắt vương nhằm lằn điển của ma quái tà thần. Do đó, trong đạo giáo nào, trong từng lớp người nào cũng vấp phải những sự đáng tiếc, bởi người không tự làm chủ và phán xét vọng niệm của mình.”(Đức Đông Phương Chưởng Quản, Chơn Lý Đàn, Tuất thời 23 tháng Chạp Ất Tỵ (14/01/66)
B.3.- Luật Cảm ứng không chỉ có tính cách thụ động, mà còn có tác động rất tích cực.
Chúng ta hãy nghe Đức Mẹ dạy tiếp:
“Vậy để đánh dấu trung thực và xác đáng đầy đủ ý nghĩa của ngày lễ này, Mẹ dạy các con hiểu thêm về hai chữ cảm ứng, nói đúng hơn đó là Luật Cảm Ứng : cái vỏ ống quẹt đựng một số diêm quẹt, nếu con để yên một chỗ, dầu muôn đời cũng không làm sao lóe lên dúm lửa. [. . .] Ơn Trời đang trùng trùng bủa giăng trong đức háo sanh bao trùm vạn vật, nhưng nếu các con không dụng công tiếp nhận đúng mức thì cũng chẳng ích chi. Bộ máy nhơn thân của các con do ngũ hành âm dương tạo dựng, nếu các con biết sử dụng vận hành thì bộ máy đó sẽ tinh vi tạo tiên tác phật. Nếu các con không biết sử dụng nó, thì các con khó thoát khỏi luật vô thường thành trụ hoại không trong vòng sanh tử mãi mãi.”
Như thế Đức Mẹ đã gieo ý thức về Luật Cảm ứng tích cực.
Trong cõi thế gian, trước cảnh chiến tranh ly loạn gây ra bao thảm họa chết chóc, khổ đau triền miên của loài người, những ai động lòng bác ái, dám hy sinh cả danh lợi, ngày đêm ưu tư đem tài trí và thiện tâm mưu cầu an lạc cho dân cho nước, đem đạo lý giáo hóa người đời; rộng ra hơn là vận động hòa bình cho nhân loại, đương nhiên có sự đáp ứng của những tấm lòng nhân ái và những điều kiện thuận lợi dẫn đến thành công. Đó là kết quả của luật cảm ứng tích cực. Nên có câu: “Cái túi khôn muôn đời của bậc vĩ nhân là mưu sự cho đời, cho nhân loại chớ không mưu sự riêng tư cho mình.”
Trong cửa đạo, Thánh giáo có dạy:
“Đừng có những mong vọng Thiên đường cực lạc, bồng lai tiên cảnh, nơi chốn xa xôi miền không trung vô tận mà quên tạo lấy cảnh Thiên đường cực lạc cho kiếp con người tại thế gian này, [ . . .]
Có lưu ý, có mong vọng, có thiết tha, có thực hành tìm kiếm làn sóng điện (Thiên điển) là chắc chắn sẽ gặp và toại nguyện. Lòng có trống không, ý có thiết tha với các Đấng trọn lành, chắc chắn sẽ được cảm ứng hộ trì và tiết động được sự cứu rỗi.” ( Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, Mùng 24 Tháng 3 Kỷ Dậu (10/5/1969 )
“. . . Nếu nhơn loại sống một đời sống vị tha vong kỷ, thì ở nơi Trời sẽ được mưa thuận gió hòa, quả hoa thạnh mậu, thảo mộc xinh tươi. Còn ở nơi người thì tình thương yêu đùm bọc, kẻ khôn dìu kẻ dại, người giàu bảo trợ người nghèo, kẻ no chia phần kẻ đói, người mạnh che chở người yếu thì thế gian nầy sẽ là cảnh thiên đường cực lạc, đâu còn cảnh tang tóc khốc hại như ngày nay.” (Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, Ngọc Minh Đài, mùng 1 tháng Chạp Bính Ngọ (11-1-67)
C. TỪ LUẬT CẢM ỨNG ĐẾN THẾ THIÊN NHÂN HIỆP NHỨT TRONG TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Các nhà nghiên cứu, học giả Đông Tây đều cho rằng có sự dung hợp Tam giáo trong Cảm ứng thiên, ngoài những điều dạy về luật nhân quả báo ứng, còn đề cập đến nguyên tắc “tích thiện” tu tiên của Đạo gia, quan niệm “Trung, hiếu, hữu, đễ” của đạo Nho, ngũ giới cấm của Phật giáo.
Nhưng điều chúng ta quan tâm ở đây là “Bên cạnh luật nhân quả báo ứng là luật Thiên nhân tương cảm 天人相感(hay Thiên nhân tương dữ 天人相與, Thiên nhân hợp nhất 天人合一) mà Cảm Ứng Thiên muốn xiển dương.” như các nhà nghiên cứu bình luận. (Lê Anh Minh, Tìm hiểu Cảm ứng thiên)
Xin đọc điều thứ ba trong KINH THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG DIỄN NGHĨA do Đức Văn Xương Đế Quân giáng bút diễn nghĩa bằng thơ lục bát:
“Thứ ba điều luật thiện tâm,
Chứa nhiều âm chất, phước lâm khỏi tầm,
Nên hư do tại chữ tâm,
Làm người đạo đức tri âm kính nhường.
Ở đời cho vẹn nghĩa phương,
Đạo Trời ủng hộ, lộc thường đến thân.
Giữ tròn đạo đức nghĩa nhân,
Tà ma xa lánh, phước Thần giúp nên.
Lòng thành thấu đến Ơn trên,
Những điều làm phải ắt nên chẳng lầm.
Tu hành luyện đặng chữ tâm,
Có ngày trông cậy đặng tầm thần tiên. . .”
“Thiên nhân hiệp nhất” là hai chiều cảm ứng hỗ tương.Ví như ta cất tiếng hô to giữa không gian núi non trùng điệp, hô càng to, âm thanh vọng lại càng vang dội liên hồi. Nên thánh giáo Cao Đài viết:
“Chư hiền gia tăng nguyện lực cho đến tối đa thì sẽ có sự cảm ứng với Thiêng liêng" (Quảng Đức Chơn Tiên, CQPTGL, 12 th.10.Nhâm Tuất (26.12.1982)
[Thánh kinh cũng viết:
_"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. (Luca 11:9)
_ "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ". [Mathieu, 18:19-20] (Thuận nhân tâm ắc thuận Trời)]
[Trong Phật giáo, một danh hiệu của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm là: Tầm Thanh Cứu Khổ Nạn Đại-Từ Đại-Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ-Tát. ; cũng là sự cảm ứng tích cực giữa nguyện lực của chúng sanh với đại nguyện cứu khổ của Đức Phật.]
Hơn nữa, Kinh Đại Thừa Chơn Giáo trong Đai Đạo TKPĐ, Đức Chí Tôn có dạy: “. . .Trời với người cũng đồng một lý, một khí mà ra, thì không cảm ứng nhau sao được? Vậy nếu người biết trau giồi linh tánh cho thiệt sáng suốt anh minh thì tự nhiên giao tiếp với Trời, thiệt là chẳng khó. ” (Đại Thừa Chơn Giáo, Mục 4 – Tồn tâm Dưỡng Tánh)
Ấy là:
“Thượng Đế từ trên cõi mịt mù,
Người đời thiện nguyện dốc lo tu,
Tạo cơ cảm ứng Thiên nhơn hiệp,
Để có thông công, có tạc thù!” ( Vạn Hạnh Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, 22 tháng 7 Tân Hợi (11-9-71)
Vậy qua Thái Thượng Cảm Ứng Thiên và Thánh giáo Cao Đài, luật Thiên nhân tương cảm đã được chứng minh. Nhưng còn hơn thế nữa, khi Đức Chí Tôn khai Đại Đạo TKPĐ, luật này còn được vận dụng triệt để, tạo thành thế “Thiên nhân hiệp nhất” để hoằng khai Đại Đạo.
Chúng ta còn nhớ, trong thời kỳ phôi thai của nền Đạo, trước khi chánh thức khai mối đạo Trời, là Đạo do Đức Thượng Đế đích thân mở Cơ tận độ thời mạt kiếp, Ngài vẫn ứng dụng luật Cảm ứng Thiên nhân hiệp nhất bằng cách dạy chư Tiền bối làm lễ “Vọng thiên cầu đạo”:
Đêm 30-10-Ất Sửu (thứ ba 15-12-1925), Đức A Ă Â giáng dạy ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang: “ Ngày mồng 1 tháng 11 này, tam vị phải Vọng Thiên cầu Đạo. Tắm gội cho tinh khiết, ra quỳ giữa trời, cầm 9 cây nhang mà vái rằng: “ Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, vọng bái Cao Đài Thượng Đ ế ban ơn dũ (càng, hơn ) phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.”
Ta thấy lời nguyện nầy tương tự như khai triển 4 câu thánh giáo trên ra văn xuôi.
Có thể nói quá trình Lập đạo, Khai đạo, Hoằng đạo của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhất nhất đều là những công cuộc “Thiên nhân hiệp nhất”.
1. Hiệp nhứt tại tâm :
Thật vậy, Thầy dạy :
“Tâm con là chỗ chí linh,
Là nơi hiệp nhất nhân sinh cùng Thầy”
(CQPTGL,15.10 Giáp Dần, 28.11.74)
Hay :
“Con có Thánh Tâm sẽ có Thầy,
Thầy là Cha cả của Đông Tây;
Tây Đông dù biết hay không biết
Thì đức Háo sanh cũng thế này”
(CQPTGL,Rằm.1 Đinh Tỵ,4.3.77)
Thầy sở cậy nơi Thánh tâm của chúng ta mà vẫn hứa hằng ở bên mình để giúp sức. Trước khi “Khai Minh Đại Đạo” Thầy đã nhắc đến Thánh Tâm vào ngày 20.4 Bính Dần (31.5.1926) :
“Thánh Tâm dầu phải chịu khổ trần đi nữa, thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy nhiêu đó mà thôi. . . Con chỉ có tu mà đắc Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi kẻo tội nghiệp” (TNHT, xb 1973, tr.21)
“Thầy những mong ở một cõi trong sạch nhứt nơi trần gian, Thầy chứng vào cõi đó, Thầy ngự vào đó để cứu rỗi con cái của Thầy trong kỳ mạt kiếp… Cái cõi tịnh khiết mà Thầy muốn ngự đó, các con có để cho Thầy đến với các con không ? Hẳn là có rồi trong mỗi đứa!” (CQPTGL, Rằm.1 Nhâm Tý, 29.2.72)
2. Biểu hiện sự siêu mầu nhứt của thế Thiên nhân hiệp nhứt là “Thiên Nhãn”
Thánh Tượng Thiên Nhãn là tượng thờ tối cao nhất của Đạo Cao Đài. Thiên Nhãn tượng trưng cho Chơn Thần của Thượng Đế. Thầy nói: “ Thần cư tại Nhãn”. Mà Thần của người lại do Trời phú bẩm. Vậy thờ Thiên Nhãn là thờ Thượng Đế Chí Tôn của vũ trụ mà cũng chính là thờ Thượng Đế nội tại trong mỗi con người nữa.
Mỗi giờ cúng kính, người tín hữu Cao Đài gom Thần nhìn ngay Thiên Nhãn để tạo điều kiện Thiên Nhơn hiệp nhứt. Con người là linh quang từ Trời ra đi, nay hướng về Thiên Nhãn để tìm đường trở lại cùng Trời.
3.- Thánh Đường: nơi biểu hiện của thế “Thiên nhân hiệp nhất” để thực hiện Tam Kỳ Phổ Độ
Thánh Đường là biểu hiện thu nhỏ của vũ trụ, trong đó Đức Thượng Đế ngự trị, vận dụng Đạo mầu thúc đẩy chúng sanh tiến hóa dần dần đến mức chí thiện chí mỹ để hiệp một cùng Ngài.
Cấu trúc “Tam đài” của Thánh Đường còn thể hiện thế “ Thiên nhơn hiệp nhứt” của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Mở Đạo kỳ này Đức Chí Tôn dùng quyền năng của Ngài và tất cả các Đấng Thiêng Liêng tức phần “Thiên” thuộc Bát Quái Đài, kết hợp với Hội Thánh tức Cửu Trùng Đài là phần “Nhơn” để phổ truyền giáo lý. Nhưng muốn phối hợp hai năng lực này phải có một cơ quan chuyển tiếp. Đó là Hiệp Thiên Đài có khả năng tiếp nhận quyền pháp từ Bát Quái Đài để truyền đạt đến Cửu Trùng Đài và xét trình thỉnh nguyện của Hội Thánh dâng lên Bát Quái Đài. Nhờ đó, cuộc vận hành cơ Đạo trở nên “Thiên nhơn hiệp nhứt” mà Thiên nhơn hiệp nhứt cũng chính là mục tiêu tu chứng của người tín đồ Cao Đài để độ mình và độ người.
Vậy Thánh Đường với cấu trúc Tam Đài cũng là một nét đậm của thế Thiên nhân hiệp nhất.
4.- Sự ban hành Pháp Chánh Truyền và lập Tân luật[21]của nền Đại Đạo thể hiện thế Thiên nhân hiệp nhất.
Chúng ta đều biết, muốn tổ chức một nền tôn giáo phải có Đạo luật. Đối với Đạo Cao Đài, Đạo luật có hai bộ : Pháp Chánh Truyền và Tân luật, Pháp Chánh Truyền qui định việc tổ chức Hội Thánh do chính Đức Chí Tôn ban truyền ngay sau ngày Khai Minh Đại Đạo (15 Bính Dần - 1926). Tân luật bao gồm Đạo pháp – Thế luật và các qui định về Tịnh Thất, nói chung là các luật liên quan đến sinh hoạt của chư chức sắc và tín đồ trong nội bộ tôn giáo và ngoài xã hội. Tân luật do các vị tông đồ của Đức Chí Tôn soạn ra và dâng lên Ơn Trên một cách vô cùng tôn nghiêm để được Ơn Trên chuẩn y.
Thế là bộ luật Cao Đài được hoàn thành do sự phối hợp Thiên Ý và Thánh Tâm của chư vị Tiền Khai Đại Đạo. Nền tảng của Hội Thánh và sự sống đạo của tín đồ đã được “Thiên nhơn hiệp nhứt” lập thành vậy.
5. Sự đặt định Tòa Thánh, Thầy cũng dụng nguyên tắc Thiên nhân hiệp nhất:
“Nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh Địa… Còn Tòa Thánh thì muốn cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý, ấy là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước.
“Từ Thầy đến lập Đạo cho các con đến giờ, Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ, các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì đẹp lòng Thầy”.(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 1973 – tr.98)
Trên đây là những nét đậm của Thế Thiên nhân hiệp nhất mà nền Đại Đạo đã in rõ ngay từ buổi sơ khai. Từ đó cơ Đạo đã phát triển không ngừng mà chúng ta có thể đúc kết thành bài học chung cho người Đại Đạo : Bài học Đắc Nhất
“Con ôi, Thầy đến lúc đầu canh,
Thông thấu thần quang cõi trọn lành;
Gió núi sóng cồn chưa ổn định,
Sương mai nắng hạ vẫn xoay quanh;
Càn khôn trẻ muốn chung cư thất,
Thiên địa con toan động tác thành;
Ngưỡng cửa viên dung là chữ nhất,
Không tìm sao thấy ở hình danh.”
(Đức Chí Tôn, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời Rằm tháng 3 Tân Hợi (10-4-71)
Đắc nhất, đắc đạo là kết quả của hai chiều tương ứng, tương cảm giữa Thiên và Nhân, giữa cõi trời và cõi người, hay nói theo vũ trụ quan Đại Đạo là giữa Đại vũ trụ và Tiểu vũ trụ. Bởi vì hai phạm trù nầy đều có chung Một Bản Thể như đại dương chứa đựng muôn loài từ các dòng nước suối nguồn sông rạch. Nói một cách rốt ráo, đó là thực tại “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”
Thánh giáo trong Đạo Học Chỉ Nam đã nêu rõ sự dung thông, thể nhập của con người và vũ trụ rằng:
“Con người với thể xác và tâm linh toàn vẹn cấu kết, đều bị sự chi phối của vũ trụ. Những biến chuyển trong tâm linh con người, cũng như mọi sinh hoạt, hành động của thể xác, đều làm di động đến vũ trụ.
“Ngược lại, đại thể vũ trụ vẫn thường xuyên huy tác trên mọi cá thể của con người. Đại thể vũ trụ luôn luôn đi liền bên con người đang sinh trên hoàn cảnh của vũ trụ.”( Minh Lý Đạo, Tiết II:Vũ trụ và con người, Mục 2: Sự chi phối của vũ trụ vào con người)
KẾT LUẬN
Thế cho nên, thánh ngôn nói tinh hoa của Đức Thái Thượng Lão Quân là Luật Cảm ứng, tức ám chỉ nó vừa bao hàm mục đích khuyến thiện trừ ác, hoàn thiện hóa con người (Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành) để tạo ra sự cảm ứng hộ trì của thần minh trong đời sống phúc đức tại thế gian, vừa là điều kiện hòa nhập vào bản thể vũ trụ, thực hành thiên đạo, lãnh mạng Trời cứu độ chúng sanh, tức là đạo xuất thế.
Đó là giáo thuyết căn bản để lập thành thế “Thiên nhân hiệp nhất” hành đạo đại thừa trong Luật cảm ứng là nguyên lý sinh động của cơ tiến hóa không ngừng của vũ trụ vạn vật.
“Di chúc ngàn năm để lại rồi,
Lạc Hồng Viêm Việt chúng dân ôi !
Thiên nhơn tác hợp càn khôn định,
Tôn chỉ Cao Đài chỉ thế thôi !” (Di Lạc Thiên Tôn, TL Thiền Điện, 3.9 )

Tân luật phát hành ngày 01/6/ 1927