

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Cứ mỗi độ Xuân về là nhớ đến Kinh Dịch. Bởi Xuân ứng với Đức Nguyên của quẻ Kiền, người ...
-
Kỷ niệm lễ Khai Minh, Nén hương nguyền lâng lâng tâm đạo, Nhớ người xưa gian khổ theo Thầy hằng chỉ giáo ...
-
Cao Đài /
Vào năm 1927, trong một đàn cơ tại Cần Thơ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã cho một bài thơ ...
-
Cụm từ Tam Kỳ Phổ Độ bao hàm hai ý nghĩa: Ý thứ nhất: Diễn tả lần lượt cho ba lần ...
-
TÂN PHÁP CAO ĐÀI 1 Tổng quan 2 Ý nghĩa Tân Pháp ...
-
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 11-8 Bính Dần (14-9-1986)
-
KHÁI LƯỢC VỀ CÔNG PHU Bài nói chuyện tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo ngày 15 tháng 3 năm ...
-
1. * Ngọc Trì là ai? Trong việc hành công, miệng con người không gọi là khẩu mà gọi là Ngọc ...
-
Xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên liên tiếp trong các ngày 11 đến 13-4 luôn đầy ắp người, đầy ắp ...
-
Qua một kiếp Ngài giáng trần bên Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường, Ngài đã để lại cho hậu ...
-
Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi? Có phải do công cha nghĩa mẹ ...
-
Trí và Thức là hai lãnh vực mà có nhiều người học đạo chưa phân biệt được rõ ràng. Thực ...
Thiện Chí
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 28/06/2025
KẾT TẬP CÁC BÀI THUYẾT ĐẠO & BÀI GIẢNG của THIEN CHÍ NVT-Chương BA

@@@
Thánh giáo có viết: “Thượng Đế đến khai minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề hoát khai Đại Đạo để cứu độ vạn linh là một hi hữu khác.” . Đương nhiên, ĐĐTKPĐ trong quá trình Khai Đạo, Tổ chức nền Đạo, truyền Đạo với Tôn chỉ Mục đích của Đạo đều có những đạc điểm so với các tôn giáo được sáng lập trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Do đó, người tín hữu Cao Đài cần nắm vững những đặc điểm ấy để có đức tin vững vàng đồng thời hành đạo tự độ độ tha đúng theo Chơn Truyền Đại Đạo mới thành công đắc quả.
Sau đây, là một số suy nghĩ của người viết về những “Đặc điểm của ĐĐTKPĐ” mà trong thời gian gần đây đã có nhiều đạo hữu thảo luận khá rốt ráo. Có thể đây chỉ là sự bày tỏ nhất trí với những gì mà quí HTĐM đã từng đề cập.
1. Đức Chí Tôn Thượng Đế xưng danh “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” là Giáo chủ trực tiếp khai Đạo và dạy Đạo trong TKPĐ, do chủ định của Ngài trong thời Hạ Ngươn Tam Kỳ Phổ Độ này Ngài không giao Chánh pháp cho tay phàm nữa. Ngài phán: “Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Ðảo.”
( TNHT,Q 1: 24 Avril 1926)
2. ĐĐTKPĐ được sáng lập, tổ chức Hội thánh, ban bố kinh điển, truyền đạo bằng huyền diệu cơ bút. Thầy dạy: “Trong thời kỳ Hạ Nguơn, chính mình Thầy dùng khí Hư Vô trực tiếp hữu hình đến thế gian để dẫn dắt thâu hồi những điểm linh quang Thầy đã cho đến trần gian trở về khối Đại linh quang” (Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ (08-02-1967).
3. Cơ Đạo của ĐĐTKPĐ là “Cơ Qui nguyên” do Qui luật “Tuần hoàn châu nhi phục thỉ” hay “Nhất tán vạn, vạn qui nhất” của vũ trụ, tương ứng với thời Hạ ngươn sau Thượng ngươn và Trung ngươn. Nên có tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhất”
4. Nguyên tắc mở Đạo, hành Đạo, và thực hành đạo pháp của ĐĐTKPĐ là “Thiên nhân hiệp nhất”.
“ Thượng Đế từ trên cõi mịt mù,
Người đời thiện nguyện dốc lo tu;
Tạo cơ cảm ứng Thiên nhơn hiệp,
Để có thông công, có tác thù.”
( Vạn Hạnh Thiền Sư,Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 22 tháng 7 Tân Hợi (11-9-71))
5. Đường lối cứu độ của ĐĐTKPĐ là khai phóng Nhân bản, nhìn nhận con người là chủ thể “tối linh”, đồng bản thể với Thượng Đế Đại Linh Quang, có khả năng tiến hóa vô hạn. Về mặt nhập thế góp phần xây dựng thế giới văn minh hòa bình; về mặt xuất thế trở về hội nhập cùng Thượng Đế.
Thế nên, Đức Chí Tôn đã phán định: “Thầy là các con, các con là Thầy” (TNHT, Q 1, Jeudi 22 Juillet 192913 Tháng Sáu Bính Dần)
6. Mục đích ĐĐTKPĐ có tính toàn diện cả hai mặt nhân sinh (sự sống đời) và tâm linh (sự tiến hóa của linh hồn), tức “Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thoát”
7. Thiên nhãn là là “bí tích” của Đạo Cao Đài. Là nơi Thần của Thượng Đế phóng phát để tín đồ hiệp thông với Ngài. Thầy dạy: "Các con hiểu Thần cư tại Nhãn; bố trí cho chư Ðạo-hữu con hiểu rõ. Nguồn-cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo hằng nhớ đến danh Thầy.”(Thánh giáo 25 Fevrier 1926,TNHT, Q1, TT.Tây Ninh,)
8. Nguyên tắc của Tân pháp Cao Đài về mặt tu luyện là “hoàn nguyên Chơn Thần”. TNHT viết: “Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn-Thần cho các con đặng đắc Ðạo. (TNHT. Q1, 25-2-1926, sđd)
9. Sứ mạng ĐĐTKPĐ là ân sủng chung ban cho toàn thể nhân loại; bất cứ ai có đức tin nơi Thượng Đế, nơi Tôn chỉ Mục đích của Đại Đạo, đều mặc nhiên được tham gia vào Sứ mạng TKPĐ để tự độ, độ tha. Do TKPĐ là thời kỳ “tận độ” “đại ân xá”.
10. Giáo lý Đại Đạo là nền Giáo lý dung hòa tổng hợp giáo lý vạn giáo và văn hóa triết học Đông Tây:
“Thầy sắp cuộc dinh hoàn tái tạo,
Dụng huyền linh Đại Đạo vận hành,
Quyền Thầy hiệp cả vạn sanh;
Đông Tây kim cổ lập thành tương lai”
Trước xây đắp Cao Đài thánh đức,
Dụng Nam bang làm mức phong khai;
Dân Nam sứ mạng Cao Đài,
Năm châu bốn bể hòa hài từ đây.”
(Đức Chí Tôn, CQPTGL, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 9 giờ đêm Rằm tháng 2 Quí Hợi (29.3.1983)
11. ĐĐTKPĐ đặc biệt chú trọng bình đẳng nam nữ giới về mặt phổ độ, về hàng giáo phẩm và pháp môn giải thoát. Ngay trong thời kỳ khai Đạo, nữ phái Cao Đài đã có chức sắc thiên phong đến cấp Chánh Phối Sư rồi Đầu Sư (chỉ dưới Giáo Tông và Chưởng Pháp)
12. Nguyên lý chung của Cơ Công truyền và Tâm truyền của ĐĐTKPĐ là Trung Đạo: Trong Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy dạy: “Ðạo Thầy là vô hình, vô dạng. Nhưng cái lý vô vi ấy cần phải nương với hữu hình (hồn hiệp xác), chẳng nên lấy cái CÓ mà bỏ cái KHÔNG, mà cũng chẳng nên gìn cái KHÔNG mà quên cái CÓ. Vậy thì «Có», «Không» phải đi cặp nhau. Như hột lúa, các con dùng đặng mà nuôi lấy thân thể ấm no là dùng cái hột gạo ở trong, chớ cái vỏ (trấu) ở ngoài các con dùng sao đặng. Nhưng các con muốn cho có hột gạo phải dùng luôn cái vỏ lúa đặng gieo xuống thì nó mới mọc lên, chớ nếu các con thấy không cần cái vỏ, rồi các con lột ra trụi lủi, còn hột gạo trơ trơ thì các con gieo sao cho nó nứt mộng đặng, các con!"
Vậy các con tu hành cũng y như lẽ đó.(ĐTCG,đàn tháng 9 Bính Tý (1936) Tôn Chỉ Đạo Cao Đài )
KẾT LUẬN
Thượng Đế đã đến, đạo pháp đã khai, thế pháp đã lập cho mục tiêu tận độ chúng sanh. Bất cứ ai ở thành phần nào, ở tôn giáo nào, dân tộc nào đều có thể tham gia vào sứ mạng Kỳ Ba bằng sự giác ngộ tâm linh trong căn cơ mình. Đức Đại Từ Phụ đang chan hòa Chơn Thần Ngài cho con cái Ngài, một sự thức tỉnh âm thầm nhỏ bé nào cũng tiếp nhận được ơn cứu độ của Ngài.
Đại Đạo khai minh tại địa cầu này với những đặc điểm của thời Hạ nguơn là cuộc hội tụ ánh từ quang của Thượng Đế, của các Đấng Thiêng Liêng với ánh linh quang giác ngộ của khắp cả chúng sanh làm sáng lên một góc vũ trụ. Đó là “ Vạn linh đã hiệp chí linh”. Một khi sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ đã hoàn thành thì cuộc Thiên nhân hiệp nhứt đó sẽ còn bừng sáng hơn nữa trong bầu Càn Khôn tràn đầy chân phúc.
___________________
II.ĐỨC TIN NGƯỜI CAO ĐÀI
Sử Đạo cho thấy Đức Tin Cao Đài, từ lúc chưa có đến lúc lập thành vững chắc nơi những người môn đệ đầu tiên là cả một biến chuyển trọng đại trong một thời gian ngắn ngủi để Khai minh Đại Đạo.
Giai đoạn lịch sử ấy, trước hết xác minh sự hiện hữu của vũ trụ tâm linh. Nói đúng hơn, xác minh vũ trụ là một Càn Khôn thống nhất, một tổng thể của sự sống hữu hình lẫn vô hình.
Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.
Cứu cánh tiến hóa phải đạt đến tâm linh viên mãn. Và trong vũ trụ chỉ có một tâm linh viên mãn tuyệt đối là THƯỢNG ĐẾ.
Thượng Đế đã đem đến đức tin đó để con người tự tin khả năng tiến hóa đến tột bậc vì đang mang Bản thể của Ngài.
Nhưng con người phải tin rằng, con đường tiến hóa chỉ có thể là con đường đạo đức. Không theo con đường đạo đức sẽ thoái hóa.
Thật ra đức tin trên đã được các bậc giáo chủ, thánh nhân rao giảng từ nghìn xưa. Nhưng lần này, chính đấng Thượng Đế trực tiếp khải ngộ con người và đem cả vũ trụ tâm linh tác động vào tâm thức nhân sinh như một đặc ân cuối cùng để tận độ.
Con đường tiến hóa vẫn diễn tiến theo luật tự nhiên, nhưng cơ cứu độ kỳ ba là cơ hội thoát hóa mau chóng nhất nếu biết hướng thượng.
Đó là niềm tin đặc biệt vào Tam Kỳ Phổ Độ.
Tuy nhiên, Thượng Đế mở cơ phổ độ tam kỳ không phải chỉ là một cuộc gieo rắc đức tin về sự hiện hữu của Thượng Đế, mà chủ yếu là để loài người biết được ý nghĩa của sự hiện hữu của mình. Thượng Đế là tuyệt đích của cuộc tiến hóa, nhưng Ngài không phủ định giá trị con người. Biết làm người rồi sẽ biết làm Tiên Phật.
Trong đức tin Cao Đài, con người không phụng sự cho Thượng Đế mà phải phụng sự cho nhau, lấy tình thương cải tạo cho nhau để xây dựng Thiên Đàng tại thế gian:
"Thượng Đế không kêu gọi con người phụng sự cho Thượng Đế, mà con người hãy cải tạo để xây dựng Thiên Đàng cho con người và thế giới ở trên đời ." ( Chư Tiền Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ; CQPTGL, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-03-1974)
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo đã dạy:
"Thượng Đế không ngự trên vật thể vô tri, mà trái lại Thượng Đế ngự trong Tâm, tháp ngà của tâm hồn nhân loại. Hình thể Đạo chỉ mượn đó để thể hiện Thánh Thể Chí Tôn tại thế. ." (Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; CQPTGL, Tuất thời, 15-01 Giáp Dần (06-02-1974)
Vậy, khi đã có đức tin, đã có hành trang thiết yếu nhất, thì người giác ngộ phải tự khẳng định chính mình là một hành giả mang lấy sứ mạng vi nhân. Thượng Đế không làm thay sứ mạng cho con người.
Cho nên sau khi đem đến đức tin, Đ ức Th ư ợng Đ ế đã dạy môn đệ cử hành đại lễ Khai minh Đại Đạo.
Đại Đạo khai minh là mở đại cuộc chuyển hóa nhân tâm và xây dựng đời thánh đức cho thế giới nhân loại, mà người hành động, người thực hiện chính là hàng giác ngộ đã có đức tin. Từ đây, người tín đồ, người môn đồ trở thành người sứ mạng, bên cạnh đức tin, mang thêm lý tưởng, lý tưởng Đại Đạo.
1. Đức tin hướng về Thượng Đế
"Có Thượng Đế hay không có Thuợng Đế" là một vấn nạn mà những câu trả lời CÓ và KHÔNG đã làm phát sinh biết bao tư tưởng, triết thuyết và ngay cả giáo thuyết khác nhau, mâu thuẫn nhau. Từ đó trở nên một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chia rẻ triền miên giữa nhân loại.
Khai Đại Đạo TAM KỲ PHỔ ĐỘ là đánh lên tiếng đại hồng chung dứt khoát tư tưởng rằng sự hiện hữu của Ngài là đương nhiên và được khẳng định bằng :
1.1. Sự thân hành giáng thế, dạy dỗ nhân sanh. Ngài đến thế gian để vận hành Đại Đạo, hiệp cả vạn sanh, và quy nhất mọi tư tưởng.
"Chính mình Thầy đến chốn Nam Bang,
Mượn đất đem giao mối Đạo vàng.
Tưới nước vun phân Nho Thích Lão,
Nâng cành sửa lá Pháp hòa Tăng. " (Đức Chí Tôn, Thiên Lý Đàn, 14.01. B. Ngũ, 1966)
Dĩ nhiên, Ngài đến bằng thiên điển vô vi, vì nếu Ngài hiện thân hữu hình thì không phải là Thượng Đế nữa.
"Thầy sắp cuộc dinh hoàn tái tạo,
Dụng huyền linh Đại Đạo vận hành,
Quyền Thầy hiệp cả vạn linh,
Đông Tây kim cổ lập thành tương lai ." (Đức Chí Tôn, CQPTGL,Rằm.02.Q.Hợi)
1.2. Những quyền năng ấy ai cũng hiểu rằng chỉ có sức Trời mới làm nỗi, nhưng hiện nay chưa bày tỏ ra hết được. Và sự khẳng định gần gũi nhất về Thượng Đế đối với người tín đồ Cao Đài là Ngài đã nhận làm một vị Thầy trực tiếp cho con cái của Ngài.
1.3. Thế nên, một THẦY mà cứu rổi cả nhân loại thì chỉ với tác năng của Đại Đạo mới làm nỗi chứ không thể dùng sự vận động riêng của một tôn giáo nào. Nên đích thân Ngài làm Giáo chủ của Đại Đạo:
"Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa." Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q. 1, 24-04-1926
1.4. Những yếu tố khẳng định trên đây dầu sao cũng chỉ là chứng lý, chỉ có thực chứng bằng tâm mới khẳng định quyết nhiên.
Nên lần này Ngài không muốn nhân sanh chỉ xác tín Thượng Đế là Chúa tể Càn khôn mà phải xác tín Thượng Đế tại Tâm:
"Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi,
Chẳng cần hạ giới dựng cao ngôi.
Sang hèn trối kệ tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen để Lão ngồi !" Xuất xứ :
Và:
"Tâm con là chỗ chí linh,
Là nơi hiệp nhứt nhân sinh cùng Thầy." Đức Chí Tôn, CQPTGL, 15.10.G.Dần, 1974
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tin rằng Đức Thượng Đế là Đấng Tối Cao duy nhứt, là Tâm Linh Tuyệt Đối của vũ trụ, là Cha chung của vạn loại. Và Ngài chính là Đức Cao Đài.
2.Đức tin hướng về Càn Khôn vũ trụ và Đại Đạo
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tin rằng Càn Khôn vũ trụ bao hàm sự hiện hữu của cả vũ trụ tâm linh lẫn vũ trụ hữu hình. Đồng hiện hữu và có tương quan với vũ trụ hữu hình đang tiến hóa, vũ trụ tâm linh mở ra lý tưởng tiến hóa cho chúng sanh.
2.1. Vũ trụ được bao hàm trong Bản thể
Vũ trụ được bao hàm trong Bản thể. Đây là nguyên lý tuyệt đối, tối thượng của vũ trụ. Không xác tín Bản thể, không thể giải đáp mọi căn đề của vũ trụ vạn vật.
Bản thể này Đạo Lão gọi là Đạo, là Tiên Thiên, là Hư Vô, Vô Vi; Phật gọi là Chơn Như; Nho gọi là Thiên; Dịch gọi là Vô Cực.
Cao Đài gọi Bản thể đó là Hư Vô Chi Khí. Kinh Đại Thừa Chơn Giáo viết:
"Đạo là gì? Đạo là Hư Vô Chi Khí, Đạo rất mầu nhiệm sâu kín cao siêu. Trước khi có Trời Đất đã có Đạo. Vậy Đạo đã tạo nên Càn Khôn Võ Trụ, hóa sanh vạn vật muôn loài. Muôn loài vạn vật phải thọ bẩm Khí Hư Vô mà sanh hóa mãi mãi." (ĐTCG,Trước Tiết Tàng Thơ,tr.66)
Vậy, vũ trụ không phải là không gian trống rỗng mà tràn ngập một siêu thể vô hình tự hữu, hằng hữu có trước Trời Đất nên gọi là Khí Hư Vô Tiên Thiên. Tuy không hình (Vô) mà lại có (Khí). Nhưng nếu Khí ấy chỉ như nước biển cả để cho muôn loài thủy vật bơi lội sinh sống trong đó thì chưa đủ gọi là Bản thể.
Bản thể vừa là nguồn gốc của thể chất, vừa là siêu năng lượng, vừa là cơ nguyên hóa sanh, vừa là động năng tiến hóa. Vì vậy, Bản thể còn được gọi là Đạo.
2.2. Vũ trụ vận động biến dịch không ngừng để sinh hóa và tiến hóa
Đức Khổng Tử đứng bên giòng sông từng thốt lên: "Chảy trôi như thế suốt đêm ngày!". Cũng với dòng sông, triết gia Hy Lạp Héraclite (trước công nguyên) lại nói: "Không ai vào được cùng một dòng sông hai lần...mọi sự phân tán rồi lại hội hiệp." Đó là hiện tượng thiên nhiên biến đổi không ngừng mà kiếp sống và cuộc đời của con người cũng không lúc nào cố định.
Thực chất của vận động biến dịch không ngừng trong vũ trụ tuy có sinh có diệt, có ẩn có hiện, nhưng đó là cái động của Đạo để tạo hóa vạn hữu và thúc đẩy vạn hữu tiến hóa.
"Lý vô thể, Đạo lại vô hình
Hình thể là do Đạo phát sinh;
Nắm mối tương quan tìm Đạo lý,
Mới hay có nẻo đến hư linh"
( Đức Trần Hưng Đạo,MLTH,02.02 Giáp dần - 1974)
Sự vận động sinh hóa trong vũ trụ tuy quan trọng, nhưng công năng vận hành tiến hóa của Bản thể vũ trụ mới là cứu cánh. Nếu trong vũ trụ chỉ có sanh hóa mà không có tiến hóa thì sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật không có ý nghĩa, và tiến hóa không ngừng vì vũ trụ vận hành theo quy luật tuần hoàn, chu nhi phục thỉ.
Thế nên đạo học đã lý giải rằng vũ trụ vạn vật nhất thể, sinh hóa từ nhứt nguyên, tiến hóa đến quy nguyên; tóm tắt trong câu "Nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù quy nhứt bổn".
Quy nguyên là đỉnh cao tuyệt đối của con đường tiến hóa vì Nguyên đó là Bản thể vĩnh cửu toàn thiện, toàn tri, toàn năng, biến hóa vô cùng, vi diệu khôn lường.
2.3. Đức tin nơi Đại Đạo
"Đại Đạo vốn con đường thông suốt,
Đại Đạo là ngọn đuốc Thiêng Liêng,
Sáng soi khắp cả các miền,
Thượng, trung, hạ giới, lý huyền ẩn vi." (Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo), Tuất thời, 26-08 Nhâm Tý (03-10-1972)
Đại Đạo là Thiên lý vận hành bất tức cuộc sinh hóa-tiến hóa của vũ trụ vạn vật. Cao Đài tin rằng tất cả các chánh giáo được sáng lập từ Nhứt kỳ đến Tam kỳ phổ độ đều có nguồn gốc Đại Đạo. Vì các hàng Giáo tổ của các tôn giáo đều là sứ giả của Thượng Đế Chí Tôn đến thế gian lập giáo tùy theo phong hóa của các dân tộc nhưng tựu trung cùng hướng về một cứu cánh duy nhất là trở về với Đạo, với Thượng Đế.
Các triết gia Tây phương từng xếp thời kỳ lịch sử nhân loại từ thế kỷ thứ 6 trước CN đến Chúa Ki-Tô là Thời trục . Thời trục là cái trục của những tư tưởng sáng chói nhất của nhân loại do các bậc Giáo tổ lập nên, từ Đức Thích Ca đến Đức Lão Tử, Khổng Tử và Đức Ki-Tô. Cái trục tư tưởng vĩ đại đó là nguồn gốc của nhiều nền triết thuyết đạo đức Đông Tây.
Ngày nay, khai minh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, không có các Giáo tổ lập nên một thời trục khác mà chính Thiên thượng và Thiên hạ sẽ hợp nhứt thành một bầu Càn Khôn của Đại Đạo mới đủ sức cứu độ toàn nhân loại.
Những gì có giá trị phổ quát, trường cửu, đại đồng và tiến hóa mới có chỗ đứng trong Càn Khôn Đại Đạo.
Thế nên, đừng ai lầm tưởng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một tôn giáo, cũng không phải là một tôn giáo lớn; Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một ĐẠI CUỘC THIÊN CƠ, trong đó mọi tôn giáo sẽ hoàn toàn từ bỏ chấp trước hình thức, giáo điều để khai phóng tâm linh con người về với Chân lý duy nhứt là Thượng Đế.
"Người vẫn tưởng Cao Đài - tôn giáo,
Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương; " (Trúc Lâm Thánh Đức Thiền Điện, Tuất thời, 07-03 Giáp Dần (30-03-1974)
Tam kỳ phổ độ đã khẳng định ý nghĩa tích cực của Đạo. Đạo là cuộc dịch biến tuần hoàn, là con đường tiến hóa, là chu trình quy nguyên, là tiến trình hiệp nhứt giữa cá thể với toàn thể, giữa con người với vũ trụ.
Khai minh Đại Đạo, Đức Giáo chủ Cao Đài muốn nhân sanh hiểu Đạo và hành Đạo theo ý nghĩa ấy.
Vậy, Đại Đạo chính là lẽ sống, lẽ tiến hóa của con người. Nếu tu chánh đạo, hành chánh đạo, tức là noi theo Đại Đạo, thì nhứt thiết con người sẽ tiến hóa trở về hiệp nhứt với Đại Linh Quang nơi cõi Thượng Thiên. Ngược lại như một vị Giáo chủ đã nói, nếu gọi là tu hành mà: "Bán rẻ giác quan cho vọng thức, đi mua vui trên sự khổ sở của tha nhân, đi vay mượn một mỹ từ tín ngưỡng để khuây khỏa nỗi sầu riêng" (Đức Ki-Tô: TT. Bàu Sen 07.11.T.Hợi, 24.12. 1971); tức là chưa hiểu Đạo, lạc lầm theo dục vọng, thì tu muôn kiếp cũng chưa thoát khỏi luân hồi!
3. Đức tin hướng về con người
Ý thức hệ Cao Đài đặt một đức tin mạnh mẽ hướng về con người, về nhân loại, vì:
"Tấm lòng của nhân loại mới chính là nơi chân lý cứu rỗi phát sinh tạo thế an bình cho nhơn loại." (Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; CQPTGL, Tuất thời, 15-01 Giáp Dần (06-02-1974).
Câu "Tam tài đồng đẳng" đã có từ ngàn xưa, nhưng trên thực tế của nhân loại hiện nay, mấy ai đã tự minh chứng được cương vị ngang bằng trời đất của mình. Phương chi do vô minh và tham dục, con người đã rơi vào hai tệ trạng :
·Một là tự cho kiếp người là cùng khổ, đời người không có ý nghĩa.
·Hai là cho rằng cuộc sống là một cuộc hưởng thụ.
Cả hai thái độ đều vô tình hay cố ý đánh mất giá trị "vi nhân". Thế nên, để đạt được mục đích của Đại Đạo trong thời hạ nguơn điêu tàn này, Tam Kỳ Phổ Độ có sứ mạng khẳng định lại con nguời chính danh, con người đúng nghĩa, con người cho thiệt con người.
Sự khẳng định đó được thực hiện trên các phương diện:
·Tầm kích vũ trụ của con người:
"Trời bao quát, xanh xanh lồng lộng,
Đất dầy bền, sâu rộng mênh mông.
Ta cùng Trời Đất cộng thông,
Trong ngoài một mối, sắc không chung nguồn. " (Đạo Học Chỉ Nam)
·Sứ mạng vi nhân của con người, đặc biệt là sứ mạng Tam kỳ phổ độ.
Đức Chí Tôn đã xác định:
" Hỡi các con, Đại Đạo là bến khởi nguyên của các con, cũng như Xuân là đức Nguyên của vạn vật. (…) Từ bến khởi nguyên, con ra đi, vương một sứ mạng hai đoạn đường: một, đem Đại Đạo lập đời; hai, trở về với Đại Đạo." (Thánh giáo Đức Chí Tôn)
_____________________
III.THIÊN NHÃN



Đôi dòng lịch sử :
Thánh tượng Thiên Nhãn của đạo Cao Đài hiện ra lần đầu cho người đệ tử đầu tiên thấy được là Ngài Ngô Minh Chiêu tại Dương Đông , Phú Quốc vào năm 1921. Ngài Ngô trực nhận đây là mặc khải của Đức Thượng Đế để chọn tượng thờ cho Đạo. Ngài họa lại Thiên Nhãn là hình con mắt trái rất uy nghiêm để tôn thờ và ít lâu sau truyền lại cho đồng đạo.
Ngày nay thánh tượng Thiên Nhãn là tượng thờ tối cao trong toàn đạo Cao Đài, tại các thánh thất cũng như tại tư gia tín hữu.
Ý nghĩa :
Đức Cao Đài dạy rằngThiên Nhãn là "lý mầu nhiệm" của Đạo, buổi ban sơ môn đệ của Ngài khó hiểu hết ý nghĩa. Tuy nhiên, dần dần theo sự xiển dương sâu rộng của nền giáo lý công truyền và tâm truyền, người tín hữu Cao Đài có thể suy nghiệm các nghĩa lý căn bản, phổ quát của Thiên Nhãn như sau :
1.Nghĩa tôn giáo :
Thờ một con mắt là thờ độc thần ( monothéiste ) , ám chỉ đạo Cao Đài là tôn giáo độc thần khác với các tín ngưỡng đa thần thời trung cổ, đánh dấu mức độ tiến hóa ngày càng cao hơn trong lịch sử tôn giáo thế giới. Vượt lên trên các tín ngưỡng sơ khai thờ vật tổ và các tín ngưỡng thờ đa thần, có các tôn giáo lớn thờ độc thần trước đây là Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo.[1] 1
Trong ý nghĩa ấy, thời kỳ này đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn biểu trưng cho Thượng Đế, vị Thần Tối Cao duy nhất của càn khôn vũ trụ. Vì Thượng Đế là đấng vô hình, đấng Cha chung của mọi giống dân, không thể dùng vật tượng hay nhơn tượng để thờ, nhưng biểu tượng Thiên Nhãn khả dĩ tượng trưng cho một giá trị phổ quát đại đồng nhứt và thể hiện được sức mạnh tinh thần của mọi chủ thể.
2. Nghĩa giáo lý công truyền :
Thiên Nhãn là biểu tượng của " Tâm ", vì " Nhãn thị chủ tâm " [2] 2Mà hướng nội, hướng tâm hay qui tâm, theo giáo lý Tam giáo là đường lối tu tiến của con người vì "Tâm" là gốc, là chủ tể [3 3
4, nguyên nhân của tất cả các nguyên nhân; "Tâm " là Đạo, là Chơn ngã ; giáo lý Phật giáo có câu :
" Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức "
Kinh Đại Thừa Chơn Giáo [4] 5, có viết :" Trong trời đất có cái lý nhứt định thanh quang là Thái Cực, làm "trung tâm điểm" cho vũ trụ càn khôn muôn nloài vạn vật. Cái "lý độc nhứt " ấy toàn tri toàn năng biến hóa vô cùng vô tận, dưỡng dục cả sanh linh, bảo tồn cả vạn loại. . . Còn với nhân loại, cái " tấm lòng " lại là trung tâm của con người . . . Cái trung tâm đạo ấy rất mầu nhiệm thông linh làm cho con người được an vui trên con đường tiến hóa. Vậy người phải lấy cái tâm làm chủ tể. "
Theo đạo học, Thiên Nhãn chính là Thái Cực vậy
3. Nghĩa giáo lý tâm truyền :
Thiên Nhãn là biểu tượng của "thần", vì "Thần cư tại Nhãn " [5]6. Thần là sức mạnh siêu nhiên của chủ thể.
Đối với Thượng Đế, Thần hay "Chơn thần" là quyền năng tối thượng của Ngài tác động lên toàn thể vũ trụ vạn vật. Trong kinh Đại Thừa Chơn Giáo Ngài dạy :
" Tại sao Thiên Nhãn là Thầy ? . . . Nhãn là cửa trái tim của con người. Trái tim ấy là Tạo hóa, tức là Thần, mà Thần là cái Lý Hư vô. Lý Hư vô ấy là Trời vậy. " [6] 7
· Đối với con người, Thần thể hiện sức mạnh tinh thần khi con người đạt đến khả năng tập trung cao nhất của Tâm.
· Về Đạo pháp, Thần là một trong ba món báu ( Tam bửu ) của Tiểu thiên địa nhân thân : Tinh- Khí- Thần. Sự tu luyện theo Tiên đạo là hàm dưỡng đầy đủ và hiệp nhứt được Tam bửu mới đắc đạo. Từ khi mới khai Đạo, Đức Cao Đài Giáo Chủ đã phán rằng " Lập Tam kỳ phổ độ nầy, duy Thầy cho ""Thần" hiệp "Tinh –Khí " đặng hiệp đủ "Tam bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập thánh" [7] 8
Vậy Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thờ Thiên Nhãn là thờ Thượng Đề hữu ngã và là thờ Chơn Thần của vũ trụ tức Thượng Đế vô ngã, là Bản nguyên của vũ trụ vạn vật, mà cũng là cứu cánh của chúng sanh.
________________________
1. Dictionaire des Religions, E.ROYTON PIKE, Presses Universitaires De France,1954, p.218. ↩
2. Thánh ngôn hiệp tuyển,TT. Tây ninh,1973,Q.1,tr.12 ↩
3. Tuân tử ( 310-230 ) cho rằng tâm là chủ tể của vạn sự vạn vật " Tâm giả hình chi quân giã, nhi thần minh chi chủ giã, xuất lệnh nhi vô sở thụ lệnh. . ." Giải tế,XXI ( Tâm là vua cái hình thể, là chủ cái thần minh, ra lệnh mà không chịu lệnh ở đâu cả) [ xem Nho giáo ,Trần Trong Kim,q.Th.tr.240 ]
Thánh giáo Đức Lý Giáo Tông :
" Tâm chúa tể trong ngoài bĩnh trị,
Tánh với tình sự lý tể khanh;
Thất tình lục dục bao quanh,
Quân binh sĩ tốt giữ gìn bản thân." ↩
4. (Huờn Cung Đàn,01.04.Nh.Dần, 62)] ↩
5. ĐTCG,Chiếu Minh, Chữ Tâm ↩
6. TNHT,Tây ninh,sđd,tr.12 ↩
7. ĐTCG, Chiếu Minh, Mục Thiên Nhãn,
↩
8. TNHT,Tây Ninh,sđd,tr12. ↩
_______________________
IV. THƯỢNG ĐẾ HIỆN HŨU
Mở đầu
Ngày mùng 9 tháng Giêng cũng là ngày đầu xuân, Đức Chí Tôn và các đấng Thiêng Liêng thường lâm phàm bằng thiên điển để chúc mừng, dạy bảo khích lệ hàng con tin Thượng Đế trên đường thế thiên hoằng giáo.
Trước khi giới thuyết đề tài “Thương Đế hiện hưu” nhân lễ Vía trọng đại này, chúng ta hãy lắng lòng chiêm nghiệm huấn dụ của Ngài như sau:
“NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ Kim Viết CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG, Thầy các con ! Thầy rất vui nhìn thấy các con đến chầu Thầy trước giờ Xuân sang để cùng nhau hưởng hồng ân Thầy dành sẳn cho các con cũng như Thầy hằng ngự nơi chánh tâm mổi trẻ.
Thi
”Thầy dành cho trẻ một mùa xuân,
Đi lại trần gian xóa khổ trần.
Như lý Đạo mầu đang cứu cánh,
Cho đời thuần túy nét thanh tân.
”Các con! Hiện tình thế sự ngày nay đã diển biến biết bao nhiêu tấn tuồng nhân quả. Đó không phải do sự chấp định của Thầy, mà do luật định của Đạo.
”Đạo là con đường duy nhất của vạn linh sanh chúng, từ Thầy ban phát đến thế gian và từ thế gian các con trở lại cùng Thầy. Thầy là Hư Vô chi khí, thì Đạo cũng đồng nghĩa đó thôi. Nên chi, trong thời kỳ Hạ Ngươn, chính mình Thầy dùng khí Hư Vô trực tiếp hửu hình đến thế gian để dẩn dắt thâu hồi những điểm linh-quang Thầy đã cho đến trần gian trở về khối Đại-Linh-Quang.
”Hởi các con! Thầy là Cha cả vạn linh sanh chúng. Thầy chỉ đem lý thiên-nhiên Tạo Hóa để ban đồng, không riêng vị. Thầy đến trong giờ này để đem lại cho các con một mùa xuân sáng chói giửa cảnh tối tăm ; đem lại một hương xuân ngào ngạt cho các con trong khi hãi hùng oi bức. Đem tinh thần xuân đến cho các con tươi tĩnh, phá tan hết những gì ám ảnh đè nén linh hồn con . . .và các con thừa hành sứ mạng của Thầy. Mang tất cả lời Thầy dạy với tình thương-yêu nhơn loại, với đức háo sanh để đem đi. Các con đi để thực-hành, thực-hành lý-thuyết Cao-Đài Đại-Đạo trong bốn mươi hai năm đã biến chuyển rất nhiều giai đoạn.”
Thưa quý vị, chí với những lời ban ơn ưu ái đầy tình thương trên đây của Đức Chí Tôn, đối với con cái của Ngài cũng quá đủ để xác tín sự hiện hữu của Ngài. Tuy nhiên, với đề tài đã nêu lên, chúng ta cũng thử khảo xác con đường xác tín ấy qua các đạo giáo, nhất là qua giáo lý Đại Đạo Tam Ký Phổ Độ.
I. Sự xác tín Thượng Đế của các đạo giáo
1.Theo Cơ Đốc giáo:
-Thánh Athanasius: “ Thượng Đế vượt trên mọi bản thể và mọi tư tưởng của con người”. Thánh Basilius: “ Tôi biết Ngài có, nhưng yếu tính Ngài tôi cho là một điều trí khôn không thể hiểu được”.
_Thánh Tôma (Thomas Aquinas) chứng minh Thiên Chúa hiện hữu qua năm cách thức (five ways) [trong phân đoạn 3 (article 3)] .
Thiên Chúa được thấy như
“Động cơ đệ nhất”
; “Nguyên nhân đệ nhất”
; “Hữu thể tất yếu”
; “Giá trị đệ nhất”
; và “Nhà thiết kế vũ trụ”
. Giới Ki Tô hữu vẫn đang dùng để nói về Thiên Chúa như “Đấng sáng tạo vạn vật” hay “Đấng toàn thiện, toàn mỹ”. . .
(Học Viên Triết 2: Đaminh Đỗ Hùng Dinh S.J)
(http://dongten.net/noidung/14776)
_Teilhard de Chardin (1881-1955)
Thiên Chúa phán: „ Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Ðấng hiện có, đã có và đang đến, là Ðấng toàn năng.“ ( Kh 1,8).Alpha và Omega - Khởi đầu và tận cùng!
Alpha là mẫu tự đầu tiên trong vần mẫu tự chữ cái của ngôn ngữ Hy lạp. Còn Omega là vần mẫu tự sau cùng trong đó.
Chúa Giêsu Kitô được diễn tả là Alpha và Omega, có ý muốn nói lên niềm tin: Ngài là khởi thủy đầu tiên và cũng là sau cùng trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
2. Theo BÀ LA MÔN GIÁO
Bà La Môn giáo, về phương diện Đại Đạo, được xây dựng trên Nhất Thể Brahman, túc là trên thuyết:Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể,
Nhất Thể Tán Vạn Thù; Vạn thù Qui Nhất Thể.
Brahman, Nhất Nguyên Thuần Tuý, Căn Nguyên Vũ Trụ là Thực Thể Duy Nhất, Bất Khả Phân, tràn ngập vũ trụ.
Brahman duy nhất nhưng có nhiều danh hiệu.
Brahman là Thượng Đế
3. Theo NHO GIÁO
Nho giáo chủ trương thuyết sinh hoá (émanation et transformation), nghĩa là vạn hữu đã từ Nhất thể phân thân mà thành, vì hết chu kỳ biến dịch, lại trở về nguyên bản. (Thiên Địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. -Nguyên Thủy phản chung). Ta còn gọi đó là Thuyết: Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể.
Nghiên cứu sách Trung Dung, Học giả Nguyễn Văn Thọ viết : “Đức Khổng vì đã tìm ra được Trời, được Đạo tàng ẩn trong tâm khảm mình, nên đã sống một cuộc đời đạo hạnh chân thực, nghĩa là sống phối kết với Trời. Trung Dung gọi thế là Phối Thiên (Trung Dung, ch. XXVI)
[Hình vòng Dich 12 Quẻ trên đây nêu lên chu trình sanh hoá-tiến hoá của vạn vật theo 2 chiều ]
4.Theo PHẬT GIÁO
Theo các Đại sư Phật giáo, khi đã biết rõ căn bản cao siêu của mình, khi đã nhận thức được Pháp Thân trường tồn trong mình; khi đã biết rõ bộ mặt thật của vọng tâm, biết rõ thân phận phù phiếm của vọng tâm, các bậc Chân Tu mới ra công “diệt ngã”. “Diệt Ngã” là “diệt Tiểu Ngã”, cho Chân Như Đại Ngã hiện ra.
“Diệt Ngã” đây cốt là để:
-Hoà hợp với Bản Thể tuyệt đối.
-Nhất trí với thực tại.
-Đồng thể với Di Đà.
-Khế hợp với Chân Như tuyệt đối.
CHÂN NHƯ CHÍNH LÀ THƯỢNG ĐẾ VÔ NGÃ
II. Thượng Đế hiện hữu theo Cao Đài giáo
Qua những nội dung đối chiếu giáo thuyết các tôn giáo trên, người tín hữu Cao Đài có thể tự khẳng định THƯỢNG ĐẾ HIỆN HỮU bằng những lập luận có tính hệ thống nhất quán từ hình nhi thượng đến hình nhi hạ và ngược lại.
1.Trước hết, về Bản thể luận, Cao Đài nêu lên thực tại Hư Vô Chi Khí là Bản thể nguyên thủy: “Khí-Hư-Vô sanh có một Thầy[. . .]Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn-Khôn Thế-Giái nầy; mà nếu không có Hư Vô chi khí thì không có Thầy.”
Ta có thể đối chiếu Bản thể Hư vô này với CHÂN NHƯ BẢN THỂ của Phật giáo:
2. Về cơ nguyên sanh hóa vũ trụ
Ngày nay, Kinh điển Cao Đài thường dùng hệ thống Vô Cực – Thái Cực – Lưỡng Nghi- Tứ tượng -Bát quái để diễn tả nguồn gốc vũ trụ vạn vật.
Thực tại Thái Cực đã được hữu ngã hóa bằng những tính năng: “Chúa tể Càn khôn vũ trụ”, “toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa . . .nắm trọn quyền hành …hóa sanh muôn loài vạn vật”-(NV)
Trong quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, và Đại Thừa Chơn Giáo, nhiều lần Ơn Trên đã khẳng định Thái Cực là nguồn gốc vạn vật với những “danh hiệu” :
_THÁI CỰC ĐẠI LINH QUANG,
_THÁI CỰC CHÚA CHA,
_THÁI CỰC THÁNH HOÀNG
_NGÔI THÁI CỰC
[ Chu Liêm Khê (1017 - 1073) là vị Tống Nho có công làm sống động lại quan niệm Thái Cực của Dịch Kinh. Liêm Khê tin rằng: trong vũ trụ có một Lý rất huyền diệu, uyên thâm, bất trắc, biến hóa vô phương, tuy vô hình, vô trạng, vô xú, vô thanh, nhưng chính là căn bản của vạn vật: Đó là Thái Cực [2]Thái Cực hay Lý là khu nữu, là trục cốt vạn vật, Vạn Hữu. Chu Liêm Khê gọi: Thái Cực là Vô Cực ; ngụ ý rằng Thái Cực vô hình thể, là một hoạt lực, một huyền năng vượt tầm tri giác của ngũ quan [3]
Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy đã xác minh Thầy là Thái Cực :
“ Thái Cực lâm trần buổi Hạ Ngươn.
Giơ tay độ chúng lại đường chơn.
Con nào thấu đáo cơ mầu nhiệm,
Thấy vậy không lo lại biếng lờn”
Các danh hiệu trên, đều ám chỉ NGUỒN GỐC vũ trụ vạn vật chính là Thực tại Tuyệt đối, vừa hữu ngã, vừa vô ngã. mà nhiều tôn giáo độc thần gọi là THƯƠNG ĐẾ.
“Một Đức Huyền Thiên hóa vạn loài,
Thâu tàng, sanh trưởng, luật vần xoay;
Phật tiên thần thánh đều do bởi,
Diệu hiệp thiên cơ ở cõi này”
Như thế, ngay ở điểm khởi đầu của cơ nguyên hóa sanh vũ trụ, ta đã thấy hình thành một bộ máy Âm Dương – Thái Cực. Chính bộ máy này là Lý nhất nguyên bất dịch từ cuộc vận hành vũ trụ, hóa sanh muôn loài đến sự thúc đẩy vạn vật tiến hóa.
Đại Thừa Chơn Giáo đã viết : “Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, biến thiên vạn hóa, vô tận vô cùng, nắm trọn cả quyền hành thống chưởng cả Càn Khôn vũ trụ và lấy cơ thể Âm Dương mà phân thanh biện trược, làm máy động tịnh để gồm tụ cái khí Hư Vô đặng hóa sanh muôn loài vạn vật
Đó là cơ nguyên sanh hóa theo Dịch lý,
3. Thượng Đế hiện hữu theo Qui luật Tiến hóa:
“. . .Thầy đã dạy rất nhiều và rất rõ ràng cho các con từ mấy mươi năm qua, Đạo là con đường duy nhứt của vạn linh sanh chúng, từ Thầy ban phát đến thế gian, và từ thế gian các con trở lại cùng Thầy. Thầy là Hư Vô Chi Khí thì Đạo cũng đồng nghĩa đó thôi”
“Một sứ mạng Thầy dành hai ngỏ,
Một ra đi, một trở lại Thầy;
Dù cho Nam Bắc Đông Tây,
Cổ kim nhơn vật do Thầy định phân.”
”. . .Sự hành đạo trên trường đạo và trên quãng đường tiến hóa cũng thế. Từ cõi Thượng Thiên, chơn linh được xuống đến cõi hồng trần, trên quãng đường dài bao nhiêu lớp, nhưng cứ tuần tự phản bổn hoàn nguyên trên quãng đường ấy rồi một thời gian dài cũng sẽ đến. ( Vạn Hạnh Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời 25 tháng 9 Canh Tuất (4-10-70)
4. Thiên nhãn là chứng lý sự hiện hữu của Thượng Đế như Bí pháp
_ Sự kiện sử đao huyền nhiệm của THIÊN NHÃN hiện ra cho người tông đồ đầu tiên là chứng lý thực tiển và siêu mầu về sự HIỆN HỮU của Thượng Đế.
_ Thiên Nhãn đã trở thành biểu tượng tôn kính thờ phượng Đức Thượng Đế Cao Đài trong toàn đạo, mà sự xác tín sự hiện hữu của Ngài không đơn giản ở nơi bức tượng Con mắt uy nghi mà ỏ nơi Chơn thần của người tín hữu cảm ứng với Thần của Thượng Đế mỗi khi chiêm ngắm cúng kính, cầu nguyện. Nên Thầy từng phán rằng “Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đặng đắc Ðạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn"
5. Sự ban trao “ Đại thừa Tâm pháp” cũng là một chứng lý hùng hồn sự hiện hữu của Đức Chí Tôn Thượng Đế .
Ðến cuối năm 1936 (01.10 Bính Tý), khi ban Kinh Ðại Thừa Chơn Giáo, là quyển kinh đầu tiên của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ về Ðạo pháp, Ðức Chí Tôn đã nêu Thánh ý như sau : " Ngày nay Ðạo đã trải qua "thời kỳ phổ thông" mà bước đến"thời kỳ giáo hóa" nên chi Thầy mới giáng một pho " Ðại Thừa Tâm pháp" để cho các con tầm lối băng về,noi theo giáo lý của Thầy đây, chắc là thoát khỏi bến mê bể khổ " (ÐTCG, Trước tiết tàng thơ, chương 24, tr.116) “
6. Chứng lý sau cùng là sự ban trao sứ mang đại thừa cho hàng thiên ân ĐĐTKPĐ:
HUẤN TỪ
1. Đại Từ Phụ Ngọc Hư sắc tứ,
Ban Thiên ân nam nữ điện tiền,
Phụng hành lý Đạo cơ Thiên,
Song tu tánh mạng pháp quyền xương minh.
2. Đạo vô vi chấp tình cầu tánh,
Thế vô thường vạn hạnh dung thông,
Nhơn nhơn tự hữu chủ ông
Hòa quang hỗn tục chí công vận hành, [ . . .]
7. Kinh điển Cao Đài xác tín Thượng Đế hiện hữu rất quyết đoán
_ Kinh “Tiếng trống Giác mê” có viết:
“Thầy là bậc hoàn toàn, vĩnh viễn, trường cửu trong cõi hư vô tuyệt đối. Nay vì lòng bác ái của Thầy muốn cho các con tiến hóa về nẻo tinh thần đạo đức, nên chi Thầy dụng cái phương pháp phi thường ngoài sự hiểu biết của phàm nhân mà dạy các con.”
“Thầy tức là nguyên lý của vô vi Đại Đạo, chủ quyền tạo hóa của cả Càn khôn vũ trụ và sinh sản các thiên lý để gieo truyền cho nhân vật từ giống thấp hèn đến loài cao trọng, ấy là nguồn cội vô thỉ vô chung đó các con.” . Đây là sự đồng hoá Thượng đế với Đạo.
Như thế, Thầy là Đại Đạo, thì Đại Đạo ở đâu và làm sao mở được cánh cửa Đại Đạo để gặp được Thầy? Thánh giáo đã trả lời:
Đại Đạo là cánh cửa Càn Khôn rộng mở cho văn minh khoa học loài người đạt đến điểm cao vút, để nhìn thấy cơ vi mầu nhiệm của Tạo Hóa, mà thành tín trước đức háo sanh mầu nhiệm và đức từ bi sáng tạo vô ngần của Thượng Đế. Như vậy, Đại Đạo là con đường chân lý mà loài người phải vươn tới.
Với giải đáp vừa nêu, cho thấy niềm tin Thượng Đế hiện hữu sẽ vượt lên trên tất cả tôn giáo, mọi lãnh vực của nền văn minh thế giới, lý tưởng loài người, tất cả những thành quả tiến bộ trong đời sống con người sẽ gặp nhau NƠI THƯỢNG ĐẾ HIỆN HỮU. Nơi đó chính là ĐẠI ĐẠO, vì “Đại Đạo là con đường chân lý mà loài người phải vươn tới.”
"Những hiện cảnh ngày nay đang phô diển trong đời là một sự cảnh tĩnh nhân loại trở về cùng Thượng Đế, tức là tiểu linh quang về hiệp thành khối Đại-Linh-Quang là Thầy."
TẠM KẾT:
Thượng Đế là Đại Bản Thể của vũ trụ vạn vật, là nguồn gốc nguyên thuỷ
Quyền năng tuyệt đối của Ngài ( Omnipotence),và sự biến hoá vượt thời gian-không gian ( Omnipresence) là chứng lý của sự hiện hữu của Ngài .
Ngài vừa là Bản thể VÔ NGÃ , vừa là Chủ thể HỮU NGÃ
: “ Ngoài trời Thượng Đế bao la / Trong lòng vạn tượng cũng là Chí Tôn “
Ngài là KHỞI NGUYÊN cũng là CỨU CÁNH: “ Đạo là con đường duy nhứt của vạn linh sanh chúng, từ Thầy đến các con. Từ các con trở lại Thầy” ( Alpha và Omega / theo Teillard de Chardin )
Ngài là Cha của sự THƯƠNG YÊU
“Thầy thường nói với các con rằng Thầy là Cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu,Thầy mới tạo thành thế giới và sanh dưỡng các con.Vậy thì các con sản xuất nơi sự thương yêu, các con tức là cơ thể của sự thương yêu.
“Ấy vậy,sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn Thế Giới. Bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình.Càn Khôn an tịnh, mới không thù nghịch nhau, không thù nghịch nhau, mới không tàn hại nhau, không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh hóa.”
Ngài là Bản thẻ Đại Linh Quang phóng phát Tiểu linh Quang cho vạn vật, nên Thượng Đế và chúng sanh hiệp nhất được trong cơ vận hành vũ trụ: Đó là Nguyên lý Thiên nhân hiệp nhất của Giáo lý Đại Đao.
* * *
“Các con khá biết rằng THẦY là một Đấng toàn tri toàn năng, thống chưởng quyền hành, hồng oai hồng thiện, chẳng phải không đủ quyền lực thiêng liêng mà thưởng phạt các con, nhưng vì lòng từ bi, THẦY quá yêu thương các con, phải lăn lóc cùng các con mà độ rỗi các con thoát khỏi chốn mê đồ” (Theo Đại-Thừa Chơn Giáo, trang 63, bản in 1956)
* * *
Trước khi kết thúc một số chứng lý về sự hiện hữu của Thượng Đế, chúng ta đã xác tín thì phải xác quyết rằng, Thương đế đã và đang đến để mở ra cho nhân loại con đường trở về cùng Ngài là cùng đích tiến hoá của vũ trụ vạn vật.:
_ “ Các con đã sanh trong Đại Đạo, hãy noi theo Đại Đạo để trở về nơi Thượng thiên Vô Cực”
_ Đời là trường tiến hóa của vạn linh. Các con vào để tiến hóa, nhưng tiến hóa về đâu hỡi các con ? Tạo Hóa không hữu tình cũng không vô tình mà sanh các con, sanh vạn vật. Nhưng vạn vật và các con lại sanh ra trong tình Tạo Hóa. Tạo Hóa có những gì đã ban tất cả cho con, từ quyền năng pháp độ cho đến máy nhiệm tân kỳ, các con đều có cả. Các con là một Tạo Hóa trong Tạo Hóa. Thế nên các con có thể tiến từ cõi vô thường lên đến cõi hằng thường vô sanh bất diệt”
“Ngoài trời Thượng Đế bao la,
Trong lòng vạn tượng cũng là Chí Tôn.” .
( Qảng Đức Chơn Tiên, Cơ Quan PTGL ngày Mùng 9 tháng Giêng Giáp Thìn (18-2- 2024)
__________________________
Tham Khảo:
Để chứng minh Thiên Chúa của Dothái-Kitô Giáo hiện hữu, nhiều triết gia đã dựa vào luận chứng luân lý. Có lẽ, triết gia đầu tiên đã sử dụng luận chứng này là Thánh Toma Aquinô ở con đường thứ bốn trong Ngũ Đạo khi ngài phân hạng các phẩm chất theo cấp độ cao thấp – điều thiện, điều thật, điều cao thượng… Sự hơn kém này được gán cho các sự vật tùy theo cách tiếp cận của chúng với hữu thể tuyệt đỉnh. Hữu thể tuyệt đỉnh này tất yếu phải hiện hữu và phải có sự chân thật nhất, thiện hảo nhất và cao thượng nhất (vì “một vật không thể cho cái nó không có”). Hơn nữa, hữu thể tuyệt đỉnh này là nguyên nhân của sự hiện hữu, sự thiện hảo và mọi sự hoàn bị của tất cả các hữu thể vì “điều gì là tuyệt đỉnh trong một giống loại thì cũng là nguyên nhân của mọi vật thuộc giống loại ấy”; hữu thể đó là Thiên Chúa.[2] ( https://sjjs.edu.vn/ban-ve-su-hien-huu-cua-thien-chua-qua-nhung-lap-luan-luan-ly/)
Thuyết Thiên địa vạn vạn vật nhất thể -Hoc giả Nguyễn Văn Thọ (nhantu.net) PHỐI THIÊN = 配 phối: (Động) Hợp, kết hợp. ◎Như: phối hưởng 配享hợp lại mà cúng tế.Thiên =Thiên (Hán tự: 天), nghĩa là "Trời", là một trong những từ Trung Quốc cổ xưa nhất và là một khái niệm quan trọng trong thần thoại, triết học và tôn giáo Trung Hoa. Thời nhà Thương (thế kỷ 17-11 TCN) người Trung Quốc gọi vị thần tối cao của mình là Thượng Đế (上帝) hoặc Đế; vào thời nhà Chu, khái niệm Thiên (Trời) bắt đầu được dùng như là từ đồng nghĩa với từ Thượng Đế. Trước thế kỷ 20, thờ cúng Trời từng là quốc giáo của Trung Quốc.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia :Chân Như (zh. 真如, sa., pi. tathatā, bhūtatathatā) là một khái niệm quan trọng của Đại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể. Chân như đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân.
(Nguyễn Văn Thọ,Tinh Hoa các Đạo giáo www.nhantu.net)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1
13 Tháng Sáu Bính Dần)
Đại Thừa Chơn Giáo, Chiếu Minh Vô Vi Tam Thanh, tr 93, NXB Tôn Giáo 2016 :
“Đạo phân thứ lớp đành rành tinh hoa
Đạo phân một, một hai ba
Là ngôi THÁI CỰC CHÚA CHA chưởng
quyền
Âm dương hiệp với ngôi Thiên
Hóa sanh vạn vật mối giềng chẳng xao
Một hai ba ấy lẽ nào
Cho đi khắp chỗ cũng vào một ngôi “
https://nhantu.net/DichHoc/DICHKINHYEUCHI/DKYC401.htm
ĐTCG , Chiếu Minh Vô Vi, NXB Tôn giáo , 2016, tr.. 219
(Đức Chí Tôn, CQPTGL, 30-12-Quí Sửu / 21-01-1974)
“ Đại Thừa Chơn Giáo, CMTam Thanh Vô Vi, NXB Tôn giáo, 2016. tr.201)
(Đức Chí Tôn, Ngọc Minh Đài, 29-12-Bính Ngọ / 08-02-1967)
“Một sứ mệnh Thầy dành hai ngày,
Một ra đi, một trở lại Thầy;
Dù cho Nam Bắc Đông Tây,
Cổ kim nhơn vật do Thầy định phân.
(Đức Chí Tôn, CQPTGL, 30-12-Quí Sửu / 22-01-1974)
Đức Thích Ca Như Lai dạy:
"Đại Đạo không có lãnh vực, biên giới, phạm vi. Tôn giáo là một danh từ dùng để nêu cao triết thuyết của một lý siêu mầu trong đạo lý. Nếu còn lãnh vực, còn biên giới, còn ta người, còn sai biệt, là không phải Đạo, cũng không phải Như Lai Bản Thể. Cao Đài, hay Thiên Nhãn trên kia[4], không có biểu thị cho một hình tướng tôn giáo, mà cốt mặc khải với nhân loại rằng: Hãy trở về chỗ Cao Đài của nhân loại sẵn có, trở về cái Trí Bát Nhã – để đắc Ba La Mật, để đáo bỉ ngạn – tức là Thiên Nhãn, Thiên Tâm, hay Phật Tánh. Nếu con người giác ngộ đến đó, tức là con người Thánh Nhân của Phật Pháp đã hiện bóng Cao Đài vô lượng vô biên."[5]
Đức Cao Triều Phát; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Tuất thời, 11-02 nhuần Ất Sửu (31-03-1985)
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Minh Lý Thánh Hội Tuất thời, 09 - 01 Mậu Thân (07-02-1968)
Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, Vạn Quốc Tự (Chơn Lý Đàn) Tuất thời, 14-8 Quý Sửu (10-9-1973)
_____________________
V. THẦY LÀ BẢN THỂ CỦA CHÚNG SANH
Thánh ngôn:
“Thầy đã từng dạy các con: Thầy sanh trưởng bảo tồn các con. Thầy đến nước Việt Nam này mở đạo dạy dỗ các con, Thầy không đòi hỏi các con làm những gì đem lại riêng tư cho Thầy, Thầy luôn luôn dạy các con phải thực hành đạo lý cho các con cái của Thầy, nghĩa là phải giác ngộ cho nhau, thương yêu dạy dỗ, đùm bọc cho nhau, bảo tồn cho nhau để cùng nhau được sống trong cảnh thái hòa, cùng hưởng hạnh phúc với nhau mãi mãi, chớ không được thù hằn ganh tị ghen ghét hại nhau rồi tự diệt nhau, vì các con là một trong vạn vật chúng sinh mà vạn vật chúng sinh là bản thể của Đạo, mà bản thể của Đạo tức là bản thể của Thầy. Các con có thương nhau tức là các con đã thương Thầy. Nếu các con ghét nhau, chính là các con ghét Thầy. Mà Thầy có bao giờ làm gì đến nỗi để các con ghét Thầy, có phải vậy hôn các con?
Thầy đã nói:
Thương nhau khác thể thương Thầy,
Ghét nhau khác thể ghét Thầy sao nên!”
A. Ý NGHĨA DANH TỪ “BẢN THỂ”
Danh từ “bản thể” thường dùng để chỉ cái gốc chung nhứt, từ đó mọi hiện tượng, mọi vật thể được sanh ra và phát triển thành vô vàn hình thái, nhưng vẫn luôn luôn ẩn tàng phẩm chất của bản thể.
Ví như nước biển là bản thể của hơi nước, của mây, của nước mưa, của suối, sông rạch . . .
Trong mỗi sinh vật, cái phôi đầu tiên là bản thể của tất cả các tế bào, của tất cả các mô, các cơ quan trong cơ thể sinh vật đó.
Nhưng xa hơn nữa, bản thể của vũ trụ vạn vật là gì?
Bản thể vũ trụ vạn vật đã có từ lúc vũ trụ chưa hình thành, vạn vật chưa phát sinh, là Tuyệt đối thể. Phật gọi là Chân như. Lão gọi là Hư vô (Đạo). Dịch gọi là Vô cực.
Đức Nam Hải Ngạn Thượng Quan Âm Như Lai dạy:
“Ngày nào nhân loại tìm hiểu, nhìn nhận lẽ Đạo, không còn phân chia nhĩ ngã, không còn phân biệt đạo này, tôn giáo nọ, tất cả chúng sanh từ nhân loại đến thú cầm thảo mộc cùng đều chung một bản thể, mỗi một đơn vị cá nhân, cá tính, cá vật đều là một phần tử của đại toàn thể hay là của Đạo, chừng đó may ra nhân loại mới thấy được yến sáng đạo lóe ra trong tâm thức mà tìm mối phăng về cùng khối đại toàn thể.”
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Người là bản thể của thiên nhiên,
Hữu hữu vô vô diệu diệu huyền,
Tuy ở hồng trần đừng dấy bợn,
Không ham phàm thể đắc Chơn Tiên.
B. . MẠC KHẢI CỦA THẦY:
Muốn hiểu được huyền nghĩa của thánh ngôn trên đây của Đức Chí Tôn, cần phải tập trung suy nghiệm những sự kiện lịch sử khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhất là những mạc khải siêu mầu về Thượng Đế, về Đại Đạo, về Cơ cứu độ Kỳ Ba.
1. Sự lâm phàm của Đức Thượng Đế để mở ra Tam Kỳ Phổ Độ quả thật là một dấu ấn nổi bật nhất của Đạo Kỳ ba mà cũng chính là sự biểu thị Đại Đạo.
Ngày 24-12-1925, đúng vào đêm kỷ niệm lịch sử của Đức Ki Tô giáng sanh, Đức Chúa Trời, Thượng Đế Chí Tôn, chính thức báo tin mừng cuộc thân hành giáng lâm của Ngài tại trần gian bằng danh xưng như sau:
“NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG”
với bốn câu thơ:
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên,
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.( Thánh ngôn Hiệp Tuyển, Q1, Bài 1, TT. Tây Ninh)
Bốn câu thơ có ý nói Ngài đã lâm phàm, Ngài nhắc cho chúng sanh biết Ngài vẫn hiện hữu và vẫn nắm giữ chủ quyền cả Càn khôn vũ trụ. Đây là một cảnh cáo đối với kẻ tội lỗi và một sự trấn an cho những người lành. Dẫu sau cũng còn Ngài, hãy vui lòng tu niệm để được ơn cứu rỗi của Ngài.
Ít lâu sau Ngài công bố: “Thầy nhất định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa.” ( TNHT. Q 1,thánh giáo năm 24 /4/ 1926)
Lời xác quyết đó khẳng định Ngài là Giáo chủ Vô vi của Đại Đạo, Giáo chủ của tất cả các Giáo chủ. Chỉ có Ngài là Đấng duy nhất ở địa vị đó. Trên Ngài không còn có thần quyền nào nữa cả, Ngài ngự trị vạn linh của tất cả các địa cầu và trên tất cả các Đấng trong cõi vô hình, nên người phàm lẫn các bậc Thiêng Liêng đều xưng tụng Ngài là “Thượng Đế Chí Tôn”.
Kinh “Tiếng trống Giác mê” có viết:
“Thầy là bậc hoàn toàn, vĩnh viễn, trường cửu trong cõi hư vô tuyệt đối. Nay vì lòng bác ái của Thầy muốn cho các con tiến hóa về nẻo tinh thần đạo đức, nên chi Thầy dụng cái phương pháp phi thường ngoài sự hiểu biết của phàm nhân mà dạy các con. Thầy tức là nguyên lý của vô vi Đại Đạo, chủ quyền tạo hóa của cả Càn khôn vũ trụ và sinh sản của các thiên lý để gieo truyền cho nhân vật từ giống thấp hèn đến loài cao trọng, ấy là nguồn cội vô thỉ vô chung đó các con.”
2.- Theo đó ta thấy trước nhứt Ngài là Đấng tuyệt đối thuộc về Hư Vô:
“Khí Hư Vô sanh có một Thầy. (…) Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn Khôn thế giới này, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.”
Vậy xét về bản thể thì Thầy là Hư Vô Chi Khí, còn xét về nguyên nhân sinh hóa vũ trụ thì Thầy là Nguyên Lý Đại Đạo.
Chúng ta hãy nghe Ngài xưng danh với đầy đủ bổn thể, chủ thể và quyền năng của Ngài như sau:
HUYỀN huyền diệu diệu chí linh linh,
KHUNG sắc hào quang hiện Ngọc Kinh.
CAO ngự chương tòa thần mặc mặc,
THƯỢNG triều Bửu điện khí khinh khinh.
ĐẾ cung Thánh, Phật giai cung hỷ,
KIM khuyết Thần, Tiên cụ tiếp nghinh.
VIẾT Thích, viết Nho, viết Đại Đạo,
CAO ĐÀI dưỡng dục hóa quần sinh.
(Thánh Giáo Sưu Tập, CQPTGL, (Huấn từ Xuân Tân Hợi - 1971)
Phân tích ý nghĩa các câu thơ, ta thấy:
+ 2 câu đầu: Bản thể của Thượng Đế:
HUYỀN huyền diệu diệu chí linh linh,
KHUNG sắc hào quang hiện Ngọc Kinh.
+ 2 câu 3 & 4: thần khí của Ngài:
CAO ngự chương tòa thần mặc mặc,
THƯỢNG triều Bửu điện khí khinh khinh.
+ 2 câu kế: thần oai của Ngài.
ĐẾ cung Thánh, Phật giai cung hỷ,
KIM khuyết Thần, Tiên cụ tiếp nghinh.
+ 2 câu cuối: Quyền năng chấp chưởng các mối đạo và hóa dục quần sanh của Đức Chí Tôn Cao Đài:
VIẾT Thích, viết Nho, viết Đại Đạo,
CAO ĐÀI dưỡng dục hóa quần sinh.
3.- Thầy là Nguyên lý của vô vi Đại Đạo
Để giúp chúng ta trực giác được Ngài là Nguyên lý Đại Đạo, Ngài từng mượn 3 chữ A, Ă, để làm ký hiệu của Ngài trong những lần còn ẩn danh lâm phàm:
* A Ă Â chẳng phải là tên vì không ráp được thành chữ. Không có cái tên nào hoàn toàn xứng đáng với Chủ thể tuyệt đối của vũ trụ.
* A Ă Â chẳng phải là hình vì không vẽ thành nhơn vật. Không có hình ảnh nào mô tả nổi nguyên lý hằng hữu của vạn vật.
* A là đầu tiên, là nguyên thỉ, Ă và Â là hai mặt của A; Ă Â vốn nhất thể nhất nguyên với A.
Đó là nguyên lý “Nhất Âm Nhất Dương chi vị Đạo” (Dịch hệ từ thượng).
4.- Ngài là Cha, cũng là Thầy của chúng sanh:
Thuở mới khai đạo, một hôm Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc chấp bút, hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo): phàm hễ Cha là Cha, còn Thầy là Thầy, tại sao Đại Từ Phụ là Cha còn xưng là Thầy nữa?
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng bút dạy rằng:
Il est en même temps Père et Maître,
Parce que c'est de Lui vient tout son être.
Il nourrit notre corps de ce qui est sain,
Il fabrique notre esprit de ce qui est divin.
En Lui, tout est science et sagesse,
Le progès de l’âme est son oeuvre sans cesse.
Les viles matières sont joyeux à ses yeux,
De vils esprits, il en fait des Dieux.
Sa loi est l'amour, sa puissance est la justice,
Il ne connaît que la vertu et non la vice.
Père: Il donne à ses enfants sa vitalité,
Maître: Il leur lègue sa propre divinité.
Xin tạm dịch:
Ngài là Cha lại là Thầy cao cả,
Vì từ Ngài sanh hóa hết muôn loài.
Thân phàm đây do thánh chất Ngài nuôi,
Nhân trí ấy nhận nơi Ngài linh tánh.
Trong Ngài đủ kiến văn và minh tánh,
Ngài không ngừng làm tiến hóa hồn con.
Vật đơn sơ xem ngộ nghĩnh muôn phần,
Tâm chất phác Ngài làm nên các Đấng.
Luật là yêu thương, quyền là công chánh,
Là Thiên tâm không vương vấn bụi trần.
Là CHA: đem sự sống đến cùng con,
Là THẦY: đã chia phần thiêng liêng đó!
Chúng ta cần chú ý câu: “C'est de lui vient tout son être” (Từ Ngài sanh hóa hết muôn loài) có nghĩa mọi tạo vật đều thọ bẩm nơi Ngài sự sống và trí khôn. Không phải vạn hữu được cấu tạo như một sở vật ngoại tại mà vạn hữu hình thành như bông trái nảy sinh từ nhựa sống của gốc rễ. Đức Chí Tôn xác minh:
“Một Chơn Thần Thầy mà sinh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong càn khôn thế giới.”
Ngài lại phán: “Thầy nói cho các con hiểu rằng: muốn xứng đáng làm môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm.”
Quả thật, Đức Thượng Đế vừa là Cha, (Đại Từ Phụ) vừa là Thầy của chúng sanh vì chúng sanh được Ngài sanh hóa ra rồi lại thúc đẩy cho tiến hóa. Thậm chí đến thời Hạ nguơn này còn đích thân lâm phàm thâu nhận các con cái làm học trò để dìu dắt lên đường giải thoát.
Nhìn lại lịch sử nhân loại song song với lịch sử các tôn giáo, ta thấy chỉ trong thời Tam Kỳ Phổ Độ mới có sự hi hữu là Đức Chí Tôn thân hành mở đạo phổ độ quần sanh.
Ngài là “Tột đỉnh” của “Nhất nguyên”. Sự lâm phàm của Ngài là tất yếu cho thời kỳ “Qui nguyên phục nhất” khi thế gian đã đến giai đoạn cực kỳ phân hóa và ở bên thềm thoái hóa. Nhưng không phải Ngài đến để tỏ ra hiện hữu mà đến để thể hiện và thực hiện trọn đủ cái phạm trù: “Thượng Đế - Đạo - Chúng sanh”.
C. THƯỢNG ĐẾ - ĐẠO - CHÚNG SANH
Phạm trù này vốn là chân lý muôn đời, nhưng hiện thực nó là sứ mạng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà đối tượng là toàn thể chúng sanh, cứu cánh là Thiên nhơn hiệp nhứt, pháp môn là giáo lý thuần nhứt của Đại Đạo.
Vậy việc giáng trần mở Đạo của Đức Thượng Đế là một dấu ấn của Tam Kỳ Phổ Độ, thiếu dấu ấn đó, Kỳ ba không còn thực chất Đại Đạo.
"'Chính mình Thầy đến chốn Nam bang,
Mượn đất đem gieo mối Đạo vàng."
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lý đạo CHÚNG SANH = ĐẠO = THẦY = BẢN THỂ là một nguyên lý hết sức đặc biệt thuộc Cơ Cứu Độ Kỳ Ba. Vì nó bao gồm những xác tín:
- Xác tín bình đẳng giữa chúng sanh trong vũ trụ,
- Xác tín chúng sanh là thực thể của Đạo,
- Xác tín Thượng Đế là động năng tuyệt đối của Đạo,
- Xác tín Tổng thể Càn Khôn vũ trụ bao gồm Thực tại vô hình và Thực tại hữu hình mà BẢN THỂ là nguyên lý Hằng hữu và Tương quan bất tuyệt giữa Chúng Sanh-Thượng Đế và Đạo.
Vậy, đoạn thánh ngôn: "Chúng sanh là Bản thể của Đạo, mà Bản thể của Đạo là bản thể của Thầy”[1] có thể phát biểu như một kết đề:
THẦY LÀ BẢN THỂ CỦA CHÚNG SANH.
Suy niệm kết đề nầy, chúng ta càng nhận thức được ý nghĩa đặc biệt của sự kiện lịch sử “Chính mình Thầy mở Đạo”, nhận thức được Sứ mạng Đại Đạo trong Tam kỳ Phổ độ. Và nhất là biết được thực chất của chúng sanh, từ đó suy ra thực chất Thượng Đế là ai. Cuối cùng qui chiếu những nhận thức ấy vào sáu chữ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.
1-Xác tín bình đẳng giữa chúng sanh trong vũ trụ
Thương nhau: Tặng vật hiến dâng Thầy,
Chẳng luận loài nào khắp đó đây.
Thương nhóm không quen nơi hướng bắc,
Thương đoàn lạ mặt chốn phương tây.
Dắt người đọa lạc về đường chánh,
Dẫn kẻ gian tà lại nẻo ngay.
Khôn dại, ngu khờ, lo tận độ,
Thương nhau: Tặng vật hiến dâng Thầy.
(sđd :Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu Ngọ thời, 14-7 Kỷ Dậu (thứ Ba, 26-8-1969)
2- Xác tín chúng sanh là thực thể của Đạo
Thánh ngôn:
“Đạo muốn đạt được chỗ bí yếu là cái cứu cánh và tác dụng đó các con. Nếu không đạt được cái cứu cánh và tác dụng đó thì dầu với danh từ nào tốt đẹp hoặc tổ chức nào nói rằng tốt đẹp cách mấy đi chăng nữa cũng không ý nghĩa gì hết. Có phải vậy không các con?
Các con ơi! Luôn luôn lúc nào và bất cứ ở đâu cũng vậy, các con phải kiểm điểm và tâm niệm rằng mình là người có đạo, mang một hoài bão cao cả, một lý tưởng cao cả trong sứ mạng thế Thiên hành hóa, giáo dân vi thiện, đem đạo cứu đời. Mình phải nói gì, phải nghĩ gì và phải làm gì để thực hiện cái hoài bão, lý tưởng của người sứ mạng đó.”
( sđd : Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu 26-8-1969)
Kinh nhập học:
“Thuận nhơn tâm ắt thuận Trời,
Câu kinh vô tự độ người thiện duyên.”
Kinh xuất hội:
“. . . Vạn linh đã hiệp Chí linh,
Hội xong cậy sức công bình thiêng liêng.
Ðã gầy dựng nên quyền giáo hóa,
Phòng hiệp vầy trọn cả nguyên nhân.
Vẹn toàn phàm thể Thánh thân,
Tùng theo chơn pháp độ lần chúng sinh.”
3- Xác tín Thượng Đế là động năng tuyệt đối của Đạo
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế ( Kinh nhựt tụng của đạo Cao Đài):
“Đại La Thiên Đế,
Thái Cực Thánh Hoàng,
Hóa dục quần sanh,
Thống ngự vạn vật.
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
Nhược thiệt nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa,
Thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh.
Thời thừa lục long du hành bất tức,
Khí phân tứ tượng, oát triền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện ác tất kiến.
Huyền phạm quảng đại,
Nhứt toán họa phước lập phân. (Ngọc Hoàng Thượng Đế Kinh-Xem thêm phần Phục lục)
……………………………”
4-Xác tín Tổng thể Càn Khôn vũ trụ bao gồm Thực tại vô hình và Thực tại hữu hình
Con ơi Thầy đến lúc đầu canh,
Thông thấu thần quang cõi trọn lành.
Gió núi sóng cồn chưa ổn định,
Sương mai nắng hạ vẫn xoay quanh.
Càn khôn trẻ muốn cư chung thất,
Thiên địa con toan động tác thành.
Ngưỡng cửa viên dung là chữ Nhứt,
Không tìm sao thấy ở hình danh?
(Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
D. SÁU CHỮ “ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”
Nếu qui chiếu Nguyên lý “Thượng Đế = Đạo = Chúng sanh = BẢN THỂ” vào Sáu chữ “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, chúng ta có thể phân tích:
- Hai chữ “ĐẠI ĐẠO”: không đơn thuần có nghĩa là Đạo lớn, Con đường lớn hay Thiên đạo vượt lên trên ý nghĩa Đạo là tôn giáo; mà hơn thế nữa, Đại Đạo là thực tại vô biên bao gồm Bản thể của Thượng Đế, Bản thể của chúng sanh và Nguyên lý vận hành hóa sinh vũ trụ vạn vật. (Đạo)
- Tam Kỳ Phổ Độ: Quyền năng Đại Đạo cứu độ nhân sanh vào Thời kỳ thứ ba của đại chu kỳ tiến hóa của vũ trụ theo Thiên cơ.
Nên khi dạy về thiên mạng của con cái của Thầy, Thầy có thánh huấn như sau:
“Con ôi! Tạo Hóa đã sắp bày vũ trụ tất nhiên lẽ sanh diệt cũng phải là tiền định của Thiên cơ. Nhưng nếu các con hiểu Thầy là một hư vô chi khí, Thầy là linh tâm của chúng sanh, Thầy vẫn ngự trị tất cả vạn loài trong thế giới, thì chúng sanh tức là Thầy, dầu bốn mùa tám tiết có đổi thay, các con vẫn vững bền như tòng bá. . .”
KẾT LUẬN
Xin đọc thánh huấn của Thầy vào đêm giao thừa 30 tháng Chạp, Giáp Dần (10-02-1975) để thay phần kết luận:
“Này các con! Tiết Xuân hòa dịu đã đến trần gian. Các con đều dừng bước để đón xuân, vui xuân và gác hết nỗi ưu tư nhọc nhằn trong năm cũ. Các con cũng nên ghi lại những gì xấu tốt, nên hư bĩ thới, thăng trầm trên quãng đường các con vừa đi qua.
Nắng hạ mưa thu đông tàn rét mướt, những kinh nghiệm sống ưu và khuyết đó sẽ đem đến cho con kỳ vọng nào để canh tân hơn, hoàn thiện hơn, cho bước đường sang giai đoạn mới trong năm mới? (...)
Nhân đây Thầy dặn dò để mỗi đứa ghi nhớ: Thầy mở cơ tận độ kỳ ba này cho các con, cho thế giới nhân loại cũng như mùa xuân đến với vạn vật. Vạn vật đã trải qua những giai đoạn sanh sôi trưởng thành hoạt động thâu liễm và tàng ẩn để phục sinh, như cái nóng bỏng của mùa hè, mưa gió thê lương của mùa thu, rét mướt lạnh lùng của mùa đông, là cơ vi triển chuyển từng giai đoạn, vừa un đúc, vừa tạo thành cho vạn vật mà không hề hủy diệt. (....)
Thầy khởi đầu cơ phục nguyên tái tạo trên mảnh đất nhỏ bé để dân tộc ít oi mà giàu lòng tin đạo này góp tay vào công cuộc xây dựng đời thánh đức thượng nguơn, thế giới an bình cho xã hội nhân loại trong tương lai.
Thầy đã đưa tay đến với các con, các con phải đưa tay tới với Thầy. Thầy sẽ dìu dắt các con đến gần Thầy và trở về cùng Thầy. Thầy cùng các con là một, sống trong lẽ thiên nhiên, trong mùa xuân vĩnh cửu.”
“HUYỀN nhiệm Thầy ban khắp cõi trần,
KHUNG trời Đại Đạo thưởng ân xuân,
CAO Đài mở rộng đường sinh lộ,
THƯỢNG cảnh lấp ngăn lối tử thần.
ĐẾ khuyết vui vầy hàng Thánh Phật,
NGỌC giai vắng vẻ bóng nguyên nhân.
HOÀNG đồ Thầy chỉ từ năm trước,
ĐẠI chí THIÊN TÔN sẽ để phần." ( CQPYGL, 30 tháng Chạp, Giáp Dần (10-02-1975)
______________________
Bài nói chuyện tại Hội trường CQPTGL
Lễ Khánh đản Đức Chí Tôn
Mùng 9 tháng Giêng Nhâm Thìn 2012
PHỤ LỤC
KINH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
Giải nghĩa (Hiền tài Quách Văn Hòa, http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/QuachVanHoa/ChuGiaiKinhCungTuThoi/ChuGiai KinhCungTuThoi.htm)
Đại La Thiên Đế: Đức Thượng Đế còn gọi là Đại La Thiên Đế, một vị vua Trời (Thiên Đế) cầm quyền rộng lớn mênh mông như một tấm lưới trời bao trùm cả các cõi thế giới (Đại La). Đây cũng là Hồng danh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Thái Cực Thánh Hoàng: Ngài cũng là Đấng Thái Cực Thánh Hoàng, tức là vị vua Thánh ngự tại ngôi Thái Cực cầm quyền sinh hóa vạn vật. Đây cũng là Hồng danh của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế
Hóa dục quần sanh: Đức Thượng Đế thường tạo hóa và nuôi dưỡng chúng sanh.
Thống ngự vạn vật: Ngài cai quản và điều hành sự tiến hóa của muôn vật.
Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết: Cổng Huỳnh Kim Khuyết trên thiên cung, sắc vàng lóng lánh hiện ra mù mù, diệu vợi.
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh: Tòa Bạch Ngọc Kinh cẩn ngọc trắng sáng, cao vòi vọi, nguy nga.
Nhược thiệt, nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa: Dường như thật, dường như hư. Không nói gì, trong sự tĩnh lặng mà vận hành sinh hóa.
Thị không, thị sắc, vô vi nhi dịch sử quần linh: Là không, là sắc. Không thấy làm nhưng sai khiến quần linh.
Thời thừa Lục long, du hành bất tức: Theo thời mà cỡi sáu rồng, đi khắp nơi không ngừng nghỉ.
Tức là Đạo Trời mạnh mẽ vận hành khắp vũ trụ không bao giờ ngừng nghỉ.
Khí phân Tứ tượng oát triền vô biên: Khí Lưỡng nghi tức Âm Dương phối hợp nhau mới phân ra Tứ Tượng. Xoay chuyển qua lại mãi mãi không giới hạn.
Đây chỉ Đạo phối hợp Âm Dương rồi sinh Tứ Tượng, và vận hành cả Càn Khôn Vũ Trụ không bao giờ ngừng nghỉ.
Càn kiện cao minh, vạn loại thiện ác tất kiến: Ngôi Càn (Đạo Tròi) mạnh mẽ sáng suốt có thể thấy rõ việc lành dữ của muôn loài.
Huyền phạm quảng đại, nhứt toán họa phước lập phân: Cái khuôn phép mầu nhiệm rộng lớn. Từng việc lành dữ đều được phân định rõ ràng.
Thượng chưởng Tam thập lục Thiên, Tam Thiên Thế giái: Thượng Đế, trên thì chưởng quản ba mươi sáu tầng Trời, ba ngàn Thế giới.
Hạ ốc Thất thập nhị Địa, Tứ Đại Bộ Châu: Bên dưới (Phần bên dưới Vũ Trụ): chưởng quản bảy mươi hai Địa cầu và bốn Đại Bộ Châu.
Tiên Thiên Hậu Thiên, tịnh dục Đại Từ Phụ: Đức Thượng Đế từ thời kỳ tiên thiên đến thời kỳ hậu thiên nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
Kim ngưỡng, cổ ngưỡng, phổ tế Tổng Pháp Tông: Từ xưa đến nay vẫn kính ngưỡng Thượng Đế, Người gom các giáo pháp để phổ độ chúng sanh.
Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi Quân: Thượng Đế là vua của mặt Trời, mặt Trăng, các vì sao và thời thần.
Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi Chủ: Ngài là chủ của Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Trạm tịch chơn Đạo: Đạo Trời chơn chánh sâu xa, lặng lẽ.
Khôi mịch tôn nghiêm: To lớn và uy nghiêm vô cùng.
Biến hóa vô cùng, lũ truyền Bửu Kinh dĩ giác thế: Đạo Trời thiên biến vạn hóa, không cùng không tận. Biết bao nhiêu lần đã truyền kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
Linh oai mạc trắc, thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh: Cái oai quyền thiêng liêng của Chí Tôn không thể đo lường được.
Chí Tôn đem những giáo điều diệu mầu để làm lợi ích cho chúng sanh.
Hồng oai, hồng từ, vô cực, vô thượng: Cái oai linh to lớn, cái lòng đại từ bi của Đức Thượng Đế thật là lớn vô ngần, không chỗ nào tận cùng, không còn gì cao hơn nữa.
Đại Thánh, đại nguyện, đại tạo, đại bi: Đức Ngài là một vị Đại Thánh, có một tâm nguyện rộng lớn, một lòng đại từ bi nên Ngài là Đấng Tạo hóa ra Càn khôn vũ trụ và vạn vật.
Huyền Khung Cao Thượng Đế: Ngài chính là Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế.
Ngọc Hoàng, tích phước hựu tội, Đại Thiên Tôn: Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là một vị Đại Thiên Tôn đã ban phước, xá tội cho chúng sanh. ◙
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu, HT. Hậu Giang Minh Chơn Đạo, 14-7 Kỷ Dậu (26-8-1969).
Thánh Bộ Từ Bi Thông Thiên Học, 01-4 Đinh Mùi (09-5-1967).
Thiên Lý Đàn, 24-7 Bính Ngũ (08-9-1966).
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q.I, 1973, tr.5.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q.I, 1973, tr.13.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q.I, đàn ngày 13-6 Bính Dần (22-7-1929).
Đức Chí Tôn, Huấn Từ xuân Tân Hợi, Nam Thành Thánh Thất, 01-01 Tân Hợi (27-01-1971).
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q.I, đàn ngày 13-3-1926.
Đức Chí Tôn, Thiên Lý Đàn, 14-01 Bính Ngọ (04-02-1966).
Đức Chí Tôn, Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu, sđd.
Đức Chí Tôn, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-3 Tân Hợi (10-4-1971).
Huờn Cung Đàn, 01-01 Nhâm Dần (04-02-1962).
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 30-12 Giáp Dần (10-02-1975).
______________________
VI. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI TRONG SINH HOẠT TÔN GIÁO
(Tham luận tại buổi hội thảo về " Tác động của đạo Cao Đài trong đời sống văn hóa xã hội tại Việt Nam" ngày 17/10/2016)
Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.
Cứu cánh tiến hóa phải đạt đến tâm linh viên mãn. Và trong vũ trụ chỉ có một tâm linh viên mãn tuyệt đối là Thượng Đế.
Tuy nhiên, Thượng Đế mở cơ Phổ độ Tam kỳ không phải chỉ là một cuộc gieo rắc đức tin về sự hiện hữu của Thượng Đế, mà chủ yếu là để loài người biết được ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Thượng Đế là tuyệt đích của cuộc tiến hóa giữa Càn khôn, nhưng Ngài không phủ định giá trị
con người là chủ thể đang tiến hóa tại thế gian.
I. Định nghĩa :
Có thể mạn phép mượn thánh ngôn Đức Vân Hương Thánh Mẫu để định nghĩa đức tin Cao Đài như sau:
"Đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, vào các Đấng Thiêng Liêng qua linh cơ để giác ngộ khải mê, giúp tín hữu Cao Đài thức tỉnh tiến bước hành đạo phản bổn hoàn nguyên"1
Tác giả thư Hebrew trong Tân Ước viết, "Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong, là bằng cớ (hoặc xác tín) của những điều mình chẳng xem thấy". (Hebrew 11.1). 2
Đức tin trong Cơ Đốc giáo là niềm xác tín vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, đấng sáng tạo vũ trụ, và niềm tin vào ân điển cứu chuộc của Chúa Cơ Đốc, con của Thiên Chúa hằng sống, đấng đã chết vì tội lỗi của nhân loại, mặc dù vẫn có thể tìm thấy một vài dị biệt trong các hệ tư tưởng khác nhau thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo.3
Đức tin theo Phật giáo đặt trọng tâm vào Đức Thế tôn Thích Ca - bậc đại giác, vị thầy của cả loài người và chư thiên - dựa vào chân lý của giáo pháp của Ngài và Tăng hội. Đức tin của Phật giáo là động lực thúc đẩy phật tử tu tập hướng về mục đích giác ngộ và Niết Bàn. ( lược dịch theo Wikipedia encyckopedia English)
II. Đức tin Cao Đài trong Sử đạo
1. Thiên nhãn hiện ra với Đức Ngô Minh Chiêu có ý nghĩa đặc biệt là Thượng Đế trực tiếp đem đức tin đến cho con người.
Người tín hữu Cao Đài thờ Thiên nhãn với ý nghĩa đó là Tâm, là Thần của Thượng Đế mà khi cúng kính, tín hữu chiêm ngưỡng Thiên nhãn để được hiệp Thần vói Ngài hầu được tinh tấn trên đường hành đạo.
2. Nhóm Phò loan vâng lịnh Đức A Ă Â làm lễ "Vọng thiên cầu đạo" có ý nghĩa đặc biệt là con người thể hiện đức tin trọn vẹn nơi Thượng Đế4.
Theo lịnh Đức AĂÂ, tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang ra giữa trời làm lễ "Vọng thiên cầu đạo" vào đêm mồng 1-11-At Sửu (16-12-1925). Tam vị cầm 9 cây nhang vái rằng: "Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn dủ phúc lành cho ba tôi cải tà quy chánh."
3. Chư Tiền Khai "khai tịch đạo với nhà đương cuộc lúc bấy giờ"5 một cách hiên ngang, có ý nghĩa đặc biệt là môn đệ Đức Cao Đài trọn tin nơi thiên cơ sẽ lập nền tân tôn giáo của Tam kỳ phổ độ.
Lời lẽ tờ Khai Tịch tỏ ra có một đức tin vững vàng về sự ra đời của nền Tân tôn giáo theo thiên cơ, có đoạn sau: (trích một đoạn bản dịch bản gốc tiếng Pháp)
“Sài gòn, ngày 7 tháng 10 năm 1926
Thưa ông Thống Đốc,
Những người ký tên dưới đây hân hạnh trình báo cho ông biết những điều sau ……………………………
Những người ký tên dưới đây theo đuổi mục đích đưa loài người trở lại thời xa xưa hoà bình và hoà hợp. Nhờ đó, con người sẽ hướng tới một thời đại mới hạnh phúc khôn cùng.
Nhân danh đa số những người Việt Nam đã tán đồng hoàn toàn sự những nghiên cứu này, có kèm danh sách đính kèm, những người có tên dưới đây hân hạnh tuyên bố cho ông hay rằng chúng tôi sẽ phổ truyền cho toàn thể loài người giáo lý thiêng liêng này.
Tin tưởng trước rằng nền Tân tôn giáo này sẽ mang tới cho mọi chúng ta hoà bình và hoà hiệp, những người ký tên dưới đây yêu cầu ông hãy chánh thức tiếp nhận tuyên ngôn (lập đạo) của chúng tôi.
Thưa ông Thống Đốc, xin ông ghi nhận những cảm tình trân trọng và chân thành của chúng tôi”
4. Đại lễ Khai Đạo vào Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926) có ý nghĩa đặc biệt Thiên nhân hiệp nhất "khai minh Đại Đạo trước quốc dân bá tánh" 6 thể hiện đức tin ra thực tướng Đại Đao Tam Kỳ Phổ Độ.
5. Đó là đức tin Cao Đài trên những sự kiện lịch sử hữu hình; nhưng về mặt vô vi, tiến trình lập đạo được vận chuyển theo nguyên lý "Thái cực biến Lưỡng nghi thành Pháp", cũng là một chứng lý cho đức tin, như thánh giáo Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy:
"Ngô Văn Chiêu là một anh cả trong Thập Nhị Tông Đồ đầu tiên. Ngô Văn Chiêu đã kiến nhận và tiếp lãnh dấu hiệu Thiên Nhãn. Nói về lý số Thiên Nhãn là con số 1, tượng trưng cho Ngôi Thái Cực.
Kế đến lập thành lưỡng nghi nơi Vĩnh Nguyên Tự. Đó là Nhựt Nguyệt Âm Dương.[Thiên phong nhị vị Đầu sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt –NV.]
Từ Thái Cực biến Lưỡng Nghi trở thành cái Pháp sanh hóa muôn loài vạn vật mà cái Pháp ấy Hộ Pháp đã tượng trưng".7
III. Đức tin của người tín hữu Cao Đài trong sinh hoạt tôn giáo hiện nay
Xin đơn cử một vài sinh hoạt điển hình mà những sự kiện tâm linh trong đó thể hiện đức tin của người tín hữu Cao Đài.
_ Hội Yến Bàn Đào Diêu Trì Cung: Theo Sử Đạo, Đêm mồng 8 tháng 8 (25-9-1925), Đức AĂÂ giáng đàn, dạy ba vị Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang chuẩn bị thiết một lễ chay để cầu thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng lâm. Đức Phạm Hộ Pháp cho biết : “Đức Chí Tôn ra lệnh, biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình. Đãi mười người (vị) Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương”
Theo truyền thống lịch sử trên, hằng năm các Hội Thánh, Thánh thất đều tổ chức Lễ Vía đức Diêu Trì và Hội Yến Bàn Đào vào Trung Thu, ngày rằm tháng 8. Thời Hạ Ngươn này, Đức Mẹ ban đặc ân cho mở Hội Yến Bàn Đào tại trần gian là một hình thức đem đến huyền nhiệm tâm linh cho con cái ý thức sứ mạng Kỳ Ba. Nên Đức Vân Hương Thánh Mẫu vâng thánh ý Đức Mẹ dạy như sau:
“Này các em ! năm nào cũng thế, ngoài những ngày lễ tết thường lệ vào những dịp khác, có lẽ Lễ Trung Thu và đặc biệt hơn nữa, trong Đại Đạo các em có Lễ Bàn Đào hiến dâng phẩm vật cho Đức Mẹ Vô Vi. Đó là một đặc điểm được xem rất quan trọng trên phương diện ý nghĩa tinh thần của nó. Vì cuộc lễ này thật sự nó là một dịp nhắc nhỡ cho các em gìn giữ đầy đủ những bảo vật Thiêng Liêng mà các em đã thọ nhận từ Diêu Cung nơi vô lượng kiếp.”( Chơn Lý Đàn, Tuất thời, 26 tháng 7 Tân Hợi (15.9.1971)
_ Lễ Vía Đức Chí Tôn: Toàn đạo Cao Đài tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hằng năm chọn ngày mùng 9 tháng Giêng tổ chức trọng thể Đại Lễ Vía Đức Chí Tôn, tục lệ gọi là Vía Trời.
Đức Chí Tôn tức Đức Ngoc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Ngài là Giáo chủ khai sáng Đại Đạo TKPĐ trong lịch sử thành lập tôn giáo Cao Đài tại đất nước Việt Nam, nên toàn thể tín hữu Cao Đài một khi đã nhập môn đương nhiên có đức tin tuyệt đối nơi Đấng Chúa Tể Càn Khôn, đồng thời là Cha là Thầy của nhân loại. Từ thuở khai Đạo, Ngài đã minh thị:
NOEL 1925,
“Ngọc Hoàng Thượng Đế, viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương,
“ Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên;
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi, muôn tên giữ trọn biên” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1, TT.Tây Ninh)
_ Đức tin về sự cầu siêu rỗi cho người tín hữu quy liễu
Triết lý của đạo Cao Đài cho rằng con người sống ở thế gian có thân xác và linh hồn, nên khi chết, không phải là hết, mà chỉ là cái thể xác hoại diệt, nhưng linh hồn thì vẫn tồn tại mãi mãi. Hay nói cách khác, chết chỉ là thay đổi trạng thái sống: Sống bằng thân xác hữu hình ở thế gian và sống bằng linh hồn, không hình thể ở cõi giới vô vi.
Sự sống của thể xác thì hữu hạn, nhưng sự sống của linh hồn mới thực sống vĩnh viễn, bất diệt. Vì thế, tôn chỉ của đạo Cao Đài là khi con người sống nơi thế gian, phải mượn thân xác hữu hình lo tu hành: Làm phải làm lành, lập công bồi đức để chuẩn bị một con đường trong cõi giới vô vi, cho linh hồn có một cuộc sống an nhàn, cực lạc.
Ngoài ra, để thực hiện đại ân xá kỳ ba, đạo Cao Đài còn ban cho bí pháp “Độ thăng” và cầu rỗi cho linh hồn được nhẹ nhàng thanh cao mà vào từng cõi giới mới. Muốn vậy, người tín đồ khi sống ở thế gian phải giữ giới luật Đạo, lập công bồi đức, và phải được vị chức sắc thọ truyền bửu pháp làm phép độ thăng cho và những người thân phải thành tâm cầu siêu cho linh hồn người chết.(Liên Thanh, ttps://sites.google.com/site/thienchaucom/--kinh-cung-tuan-cuu)
Bài Kinh Khai Cửu đem lại đức tin siêu rỗi cho người quá vãng nếu biết thức tĩnh dứt bỏ tất cả dục vọng hay phiền não trần ai:
Đã quá chín từng Trời đến vị,
Thần đặng an, Tinh, Khí cũng an.
Tầng Trời gắng bước lên thang,
Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.
Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi,
Quên trần ai mong mỏi Động Đào.
Ngó chi khổ hải sóng xao,
Đoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
Giọt lụy của Cửu huyền dầu đổ,
Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
Dứt tan sự thế nợ trần từ đây. •
III. Người tín hữu Cao Đài phải giữ đạo, hành đạo với đức tin như thế nào?
1. Một đức tin trong sáng : vào Đạo để bắt đầu đời sống tâm linh tích cực trong cuộc sống nhân sinh chân chánh, chứ không phải để trốn đời hay tìm kiếm thế lực vô hình cho những nấc thang danh lợi. Ơn Trên dạy:
"Chư hiền đệ hiền muội đã ý thức được thiên đàng địa ngục là đâu. Có phải ở tận trên vòm trời sâu thẳm hay ở dưới đáy biển lòng đất sâu dày đó chăng ? Tất cả thiên đàng hay địa ngục điều có tự trong con người chư đệ muội. Nếu chư hiền đệ hiền muội biết hướng thượng, biết gìn thiên lương chơn tánh, biết trau dồi báu ngọc mâu ni, chư hiền đệ hiền muội sẽ có một cảnh thiên đàng trong nội tâm ngày ngày an lạc. Ngược lại, chư hiền đệ mãi tiến bước trên con đường dục vọng buông bắt những ảo ảnh phù hoa, làm sao tránh được cảnh buồn vui cười khóc, được mất nhục vinh ? [ . . .]
Người tu hành không tìm đạo lý ở ngoài thân mà phải tìm ở nội tâm."8
2. Một niềm tin sâu sắc về thời kỳ đại ân xá: Nhập môn Cao Đài là là cơ hội hi hữu ngàn năm một thuở được bước vào môi trường đại ân xá kỳ ba, nên Ơn Trên thường dạy rằng: hữu duyên mới ngộ Đại Đạo TKPĐ. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn từng dạy :
"Hỡi này chư hiền đệ muội ôi! Tam Kỳ khai Đại Đạo, Tam Giáo Thánh Nhơn mở rộng cửa từ bi để gom ba nhành về một cội. Trên Thượng Đế thi ân bố đức, dưới phật tiên kêu gọi chúng sanh đưa nguyên căn về bổn vị, rước hóa nhơn tránh cảnh luân hồi. [ . . .]
Đã từ lâu, cơ quy nguyên rải gieo khắp chốn, tiếng thống nhứt lắm lần vội giục, ngày vạn linh đại hội cũng gần, vậy Lão thử hỏi chư hiền, nếu không đủ đầy công đức thì làm sao được siêu phàm thoát tục; lấy chi để đảm bảo chơn linh sau khi lìa xác. Phương chi, kỳ Hạ nguơn mạt kiếp là kỳ đại ân xá để cho chư hiền lưỡng phái dưỡng tánh tu tâm, tô công bồi đức được dễ dàng, hầu bước lên nấc thang hành đạo".[9]
3. Một đức tin để tu tiến: Cao Đài đã vạch ra con đường tiến hóa tâm linh rất rõ ràng và thuận lợi hơn bao giờ hết trong thế Thiên nhơn hiệp nhất của cơ tận độ quy nguyên.
Đức Quan Am Bồ Tát có dạy:
"Chư hiền đệ hiền muội là những thành phần giác ngộ tâm đạo, học hỏi để tu công lập đức, cốt ý là hoàn thiện hóa bản thân trong kiếp đời hiện tại và được giải thoát phần chơn như khi về bên kia thế giới.
[ . . .]
Đời con người lấy lẽ sống làm căn bản, nếu chỉ là sống cho bản thân giả tạm ở cõi vô thường nầy thì không cần phải đề cập đến, mà phải quan niệm luôn cả lẽ sống về tâm linh.
Con người muốn toại hưởng cõi thanh bình phải nhắm vào thực hành các điểm sau đây :
1/- Nội công tu tiến,
2/- Ngoại công đức hạnh,
3/- Quá khứ tâm nên dứt bỏ,
4/- Hiện tại tâm không có,
5/- Vị lai tâm đừng vọng tưởng.
Đó là hạng tu tiến một quãng đường khá dài mới có thể thực hành được trọn vẹn." (Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 14 tháng Giêng Kỷ Dậu (2/3/69)
Chư Tiền Khai Đại Đạo cũng từng ân cần khuyên nhủ chúng ta:
“Khép mình vào khuôn viên mẫu mực,
Giữ qui điều giới luật tam công ;
Cúi đầu thọ lệnh Thiên phong,
Thay Thầy hoằng đạo còn mong chi là.” [10]
4. Một đức tin để thi hành sứ mạng kỳ ba: " Đối với những người mệnh danh là hướng đạo, là nòng cốt cho cơ đạo cứu thế, những kẻ hiến dâng cho ánh sáng lý tưởng Đại Đạo thì nền tảng tâm linh phải được xác định trước tiên và hơn ai hết. Vì vậy, kế sách về tâm linh cho những kẻ hiến dâng phải được đề cập trước nhất. Bần Đạo cũng nhắc lại trên phạm trù tâm linh, giá trị đức tin là giá trị của ý chí hiến dâng cho một lý tưởng sáng chói để cứu thế. Có một đức tin dõng mảnh là đã có một ý chí hào hùng tin quyết về kết thúc cao quý của sự cứu độ toàn dân sinh bằng một lý tưởng thật sự thanh cao của Đại Đạo. Phải tin quyết thì mới nhất tâm để chí thành hành sự. Đã có nhất tâm chí thành hành sự thì kết quả không xa."[11]
KẾT LUẬN
Tóm lại đức tin Cao Đài với hàm xúc những ý nghĩa trên đây, phải gọi là Đức tin Đại Đạo. Bởi vì Thượng Đế và các Đấng Thiêng liêng đã đem đến cho nhân sanh thời TKPĐ này một đức tin khai phóng và nhân bản.
_Khai phóng vì với đức tin ấy, con người cảm thấy mình là một chủ thể tự do trong Bản thể vũ trụ, trong đó có mối tương quan tương ứng mật thiết với chủ thể tối cao là Thượng Đế. Từ mối liên hệ đó, đức tin Đại Đạo khẳng định con người có khả năng tiến hóa đến mức siêu việt.
_Nhân bản vì đức tin ấy không khuyến khích tín hữu lệ thuộc thần quyền; không chờ đợi được cứu độ mà phải biết tự độ. Hơn nữa, đức tin Đại Đạo đem đến ý thức sứ mạng vi nhân, nhìn cuộc đời là một trường học hỏi, rèn luyện để tiến hóa . Đối với chúng sanh là tình anh em một Cha, đối với xã hội có nghĩa vụ phụng sự.
Đặc biệt, hàng thiên ân thọ nhận Sứ mạng đại thừa, với đức tin Đại Đạo, phải đạt đến "giá trị của ý chí hiến dâng cho một lý tưởng sáng chói để cứu thế. "
Đức Chí Tôn khai minh Đại Đạo cách đây hơn 90 năm, mà hằng năm, ngày Rằm tháng 10, toàn đạo hân hoan cử hành đại lễ kỷ niệm, là thắp lên ngọn đuốc vĩnh cửu, soi tỏ Thiên cơ đang thúc đẩy nhân sanh tiến lên Con đường phản bổn hoàn nguyên là đường tiến hóa vinh diệu trong đức háo sanh của Thượng Đế, mà đặc ân trong thời Hạ nguơn nầy là Cơ đại ân xá kỳ ba.■
______________
1. Đức Vân Hương Thánh Mẫu,CQPTGLĐĐ, Tuất thời 13 tháng 8 Kỷ Mùi (3-10-1979) ↩
2. Theo Wikipedia Encyclopedia, tiếng Việt ↩
3. Sđd ↩
4. (Đọc thêm Lịch sử Dạo Cao Đài, quyển I –Khai Đạo, CQPTGLĐĐ,nxb. Tôn giáo, 2004) ↩
5. ĐPCQ, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời 20 tháng 2 Quí Sửu (24.03.1973) ↩
6. ĐPCQ, sđd ↩
7. ĐPCQ, sđd ↩
8. Đức Quan Âm Bồ Tát,Chơn Lý Đàn, Tuất thời, mùng 01 tháng 4 nhuần Giáp Dần (22.5.1974)
9. Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, Huờn Cung Đàn, Tuất thời mùng 9 tháng 2 Tân Sửu (25-3-1961)
10. Chư Tiền Khai Đại Đạo, CQPTGLĐĐ, Tuất thời 14 tháng 2 Giáp Dần (7.3.74)
11. Giáo Tông Đại Đạo, CQPTGL, Tuất thời 14 tháng 2 Ất Mão (26.3.1975)
__________
(*) Cơ Quan PTGLĐĐ
___________________
VII. TIỀM LỰC SÂU THẲM
Thánh giáo dạy người hướng đạo chơn tu phải phát huy tiềm lực sâu thẳm (*) mới đạt được những thành tựu công trình đúng theo Thánh ý Thiên cơ.
Tiềm lực là nguồn năng lượng hay sức mạnh ẩn tàng bên trong, không phải là động năng của những hành vi đối phó các sự việc thông thường trên đường hành đạo. Nó rất sâu thẳm nên hành giả phải dụng công khơi dây. Ví như viên ngọc tuyệt mỹ dưới đáy biển, người sưu tầm phải chịu khó nhọc đem bí quyết kình ngư lặn lội nhiều phen mới phát hiện. được.
Cũng thế, hành giả luyện kỹ Lục độ ba la mật sẽ tuần tự vượt qua các giai tầng từ cạn đến sâu: Bố thí – Trì giới – Nhẫn nhục – Tinh tấn – Thiền định – Trí huệ. Nếu xếp theo chiều dọc ta có:
Ø Bố thí tức là cho để trừ lòng tham.
Ø Trì giới tức là giữ giới để trừ ô nhiễm.
Ø Nhẫn nhục tức là nhường nhịn để trừ giận hờn.
Ø Tinh tấn tức là sốt sắng để trừ lười biếng.
Ø Thiền định tức là chuyên chú để trừ loạn tâm.
Ø Trí tuệ tức là sáng suốt để trừ si mê.
Như vậy, khi nào hành giả đạt đến công phu “Thiền định trí huệ” mới phát động được “tiềm lực sâu thẳm”. Thật thế, hành giả phải “hành thâm ba la mật đa” bằng ý chí phi thường hầu có kết quả. Đức tin kiên cố, chí quyết hiến dâng là hai điều kiện để thành công như lời dạy của Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo:
“Đức tin phải đạt đến giá trị của ý chí hiến dâng: “ Đối với những người mệnh danh là hướng đạo, là nồng cốt cho cơ đạo cứu thế, những kẻ hiến dâng cho ánh sáng lý tưởng Đại Đạo thì nền tảng tâm linh phải được xác định trước tiên và hơn ai hết. Vì vậy, kế sách về tâm linh cho những kẻ hiến dâng phải được đề cập trước nhất. Bần Đạo cũng nhắc lại trên phạm trù tâm linh, giá trị đức tin là giá trị của ý chí hiến dâng cho một lý tưởng sáng chói để cứu thế. Có một đức tin dõng mảnh là đã có một ý chí hào hùng tin quyết về kết thúc cao quý của sự cứu độ toàn dân sinh bằng một lý tưởng thật sự thanh cao của Đại Đạo. Phải tin quyết thì mới nhất tâm để chí thành hành sự. Đã có nhất tâm chí thành hành sự thì kết quả không xa.” (1)
Đức tin đã vững, ý chí đã sẵn sàng, bèn tự hỏi nguồn ánh sáng quang huy của viên ngọc kia do đâu mà có, thực thể của viên ngọc là gì? Hãy nghe Đức Mẹ mách bảo:
“ Cõi hậu thiên thân sanh vào đó,
Điểm tiên thiên sẵn có nơi thân;
Là mầm sống, là nguyên thần,
Là Trời là Đạo, là Nhân của người.” (2)
Ôi ! thì ra đó là “thực thể đạo” tiên thiên trong nền tảng tâm linh, vừa vô cùng huyền nhiệm, vừa bao dung nhân bản. Tiềm lực của nó lớn lao vô cùng vì phẩm chất của nó là tình thương và sự sống. Từ ngàn xưa, thánh nhân đã dầy công chứng nghiệm công năng tiềm lực ấy bằng Đạo pháp.
Đạo pháp là phương pháp vận hành bộ máy nhân thân cơ cấu như tiểu vũ trụ vì có đủ căn bản Âm Dương cùng hoạt lực sự sống do tiểu linh quang chủ sử.
Nên thánh giáo viết :
“Điểm linh quang ban từ thượng giới,
Vào nhục thân vun xới cội lành;
Âm dương động tịnh trược thanh,
Thần hình tương ỷ tương sanh đó là” (3)
Đó à cơ nguyên của Đạo pháp, nhưng cái thực dụng của Đạo pháp không chỉ để dưỡng sanh tánh mạng là phần tự độ mà còn là chìa khóa vạn năng để hành giả hoàn thành những công trình hoằng khai cơ Đạo giác hóa nhân sanh. Nên Đức Lão Tổ từng ân cần nhắc nhở:
“Chư hiền đệ hiền muội rất có thiện chí để thuận hành đạo pháp vượt khổ hải trùng dương là một điều đáng ngợi khen, nhưng phải bền chí nhẫn nại tìm cho được cái mấu chốt duy nhứt để điều động guồng máy cho thông suốt, khả dĩ tự hoan lạc tâm trung và phát hiện ra diện mạo hiền hòa thư thái. Sự chứng ngộ đó sẽ có ảnh hưởng rất to tát cho cơ tận độ ngày nay.” (4)
Cho hay cái tiềm lực sâu thẳm nói trên chính là cái “mấu chốt duy nhứt” của Đao pháp vậy./.
(*) "Về công trình trong công cuộc phổ thông giáo lý hay trên đại thừa Thięn đạo, chư hiền đệ muội chưa phát huy được tiềm lực sâu thẳm của hướng đạo chơn tu thành một thực thể đạo cứu thế bằng cách này hay cách khác. Do đó, chưa thể đúc kết lại thành công trình khả dĩ thành tựu đúng Thánh ý Thięn Cơ." (Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, CQPTGL, 1980)
(1) Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời 14 tháng 2 Ất Mão (26.3.1975)
(2) Đức Diêu Trì kim Mẫu, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời 13 tháng 8 Kỷ Mùi (3-10-1979)
(3) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời 20 tháng 2 Quí Sửu (24.03.1973)
(4) Đức Đông Phương Lão Tổ, sđd
____________________
V.III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CƠ ĐẠO
A. Trang bị tư tưởng làm bệ phóng phát triển cơ đạo
1.-Trong một lần giáng cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo; Đức Cao Triều Phát đã tóm lược lý tưởng Đại Đạo qua bốn điểm căn bản:
“Đây, Tiên Huynh tóm lược lý tưởng Đại Đạo để các em suy gẫm, nhìn thấy chỗ tối cao, tận thiện, tận mỹ của chánh pháp Kỳ ba:
1.1. Đại Đạo là con đường rộng lớn nhứt để đưa nhân loại đến đại đồng thế giới, không kỳ thị phân chia, phù hợp xu hướng văn minh tiến bộ, tạo cảnh giới an lạc hòa bình, hạnh phúc trần gian, và siêu xuất thế gian; đó cũng là chiếc Bát nhã thoàn đưa khách năm châu đến cứu cánh tận độ.
1.2. Đại Đạo là cánh cửa Càn Khôn rộng mở cho văn minh khoa học loài người đạt đến điểm cao vút, để nhìn thấy cơ vi mầu nhiệm của Tạo Hóa, mà thành tín trước đức háo sanh mầu nhiệm và đức từ bi sáng tạo vô ngần của Thượng Đế. Như vậy, Đại Đạo là con đường chân lý mà loài người phải vươn tới.
1.3. Đại Đạo đưa con người tiến hóa lên nấc thang đạo đức tận thiện tận mỹ. Chánh pháp Thầy truyền, giáo lý các Đấng Thiêng Liêng dạy, tình dân tộc nghĩa đồng bào của chư môn đệ, cứu cánh tận độ của Đức Chí Tôn đặt để, và môi trường xã hội loài người; cả thảy đều là yếu tố tích cực, rất thuận lợi cho loài người tiến đến đạo đức cao cả, nhất là vào thời kỳ mạt kiếp.
1.4. Trong phạm vi khác, Đại Đạo có thể là con đường sứ mạng của dân tộc Việt, vì giáo lý Cao Đài là kết hợp tinh thần văn hiến của dân Việt. Đó là điều hãnh diện của dân tộc trong công cuộc xây dựng văn minh thế giới chung.” [1] (Đức Cao Triều Phát; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Tuất thời, 11-02 nhuần Ất Sửu (31-03-1985)
2. Tâm vật bình hành (Xem phần đọc thêm ở cuối bài)
Muốn tạo thế nhơn hòa là mục đích của Tam Kỳ Phổ Độ, người sứ mạng phải phát huy cái đức tâm vật bình hành một cách thời trung.
« Thời trung là một cuộc vận chuyển vần xoay tạo dựng trong thời đó ».
« Thế thì ai vận chuyển vần xoay tạo dựng trong thời này ».Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn đáp :
« Thượng Đế và con người hay Thiên lý và Nhân tâm nếu thiếu một trong hai thì cuộc đời sẽ đi đến cơ hủy diệt » (CQPTGL, 5.10.1963).
3. Phổ thông giáo lý không phải hiểu đơn thuần làm cho mọi người hiểu Đạo là đủ, mà phải làm cho cơ Đạo được thống nhất tinh thần, thông suốt mọi dân tộc, mọi lý thuyết và mọi hoàn cảnh. (ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG CQPTGL, 19.02.B.Dần)
B. Yêu cầu nhân sự cho sự phát triển cơ đạo : Trong giáo lý Đại Đạo, công tác giáo dục đào tạo được Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo nhấn mạnh mục tiêu đào tạo nhân sự “phẩm” và nhân sự “hợp nhất”. Ngài dạy :
“Giá trị phẩm của từng cá thể phải được rèn đúc và xây dựng thường xuyên. Giá trị đức tin, giá trị nhơn ái, giá trị tri thức, và giá trị dũng mãnh của tinh thần, tất cả phải được nung nấu và cải thiện luôn luôn.... Ngoài ra, trí năng và thể năng là hai năng lực bổ sung nhau, giúp đở sự thực thi trọn vẹn đức tin và lòng nhân ái của chính mình”
C. Học viện và Thiền đường (Đạo pháp): hai hướng song song phát triển cơ đạo
1. Học viện : Tâm là nguồn gốc vạn vật, hễ nói đến Đạo là nói đến Tâm. Trên đời này có vô số kinh điển triết thuyết nói về Tâm mà chưa cùng tột chỗ rộng lớn minh linh của tâm. Thế nên những ai phát nguyện tham cứu tu học Đại Thừa để làm sáng Thiên Đạo cũng nên dung hội các giáo lý cao thâm để tìm hiểu yếu lý tối thượng Đạo Pháp. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ rất cần có một số hướng Đạo thông đạt đến chỗ yếu lý cao siêu của Tam Giáo để xây đắp nền tảng cho giáo pháp của Đạo bằng tinh hoa kết hợp đúng với tinh thần dân tộc, mới tạo được sự an bình cho đất nước và nhân loại.
Muốn thế, cần phải hình thành một tổ chức nghiên cứu Đạo học. Muốn có được tổ chức này, cần phải có Chơn Tâm tròn trịa không góc cạnh nhân ngã, mới thành công được. Đạo đến một ngày hoằng dương cứu độ, tất phải cần những bậc tu chứng làm nồng cốt và làm tai mắt để đáp ứng cùng những hàng cao nhân tìm hiểu giáo lý và chỉ điểm cho những ai tâm nguyện tu hành.
( ĐỨC ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN BNTĐ, 21.05.Ất Mão, tr.2)
2. Đạo pháp : Cần nhắc lại câu thánh ngôn :«Thượng Đế và con người hay Thiên lý và Nhân tâm nếu thiếu một trong hai thì cuộc đời sẽ đi đến cơ hủy diệt » để nhấn mạnh rằng: muốn phát triển cơ Đạo, phải tổ chức song song tu học (Đạo học) và tu luyện (Đạo pháp), để đạt đến “Thiên đạo đại thừa”. “Thiên đạo” sẽ thu phục được nhân tâm; “đại thừa” để tâm vô phân biệt xây dựng xã hội đại đồng. Nói cụ thể, bên cạnh nhà trường phải có nhà tu để đào tạo nhân sự hoàn hảo cho công cuộc phát triển cơ đạo.
D. Các thế hệ tiếp nối là nguồn năng lực vững bền của tiền đồ Cơ đạo
1. Cũng cố phát huy hàng ngũ Thanh thiếu niên Đại Đạo
2. Liên tục bồi dưỡng giáo lý, kiến thức nhân văn, các kỹ năng phụng sự đạo đời cho giới trẻ.
3. Lần lượt xây dựng các cơ sở sống đạo tập thể. Đầu tư xây dựng đội ngũ hiến dâng
4. Thánh giáo : Thanh Thiếu Niên : là những mầm non đang lên, cần khéo tay uốn nắn để tránh các phức tạp sa đọa của thế gian. Phải chủ trương hòa hiệp chúng nó, không được gieo tưtưởng chia rẽ chúng nó., phải lấy đức độ hiền hòa của bậc đàn anh cảm hóa, lấy tình thương trừng phạt chúng nó. Nghĩ đến thanh thiếu niên là nghĩ dđến tương lai của Đạo, của dân tộc nước nhà. Là khuôn vàng thuớc ngọc, là cái vỏ cứng bao bọc hạt nhân thì cái hình thức được đặt để tác dụng quí giá, cái mầm mạnh mẽ đâm chồi mới là điều đáng kể và đáng giá sự hi sinh. Có được vậy tiền đồ Đại Đạo mới vững chải, nền tảng nước non mới văn minh tiến bộ. (ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG, NMĐ, Tuất, Rằm.7 C.Tuất (6.8.70) tr. 13)
“. . .Tiên Huynh rất chú trọng đến Thanh Thiếu Niên, muốn cứu cánh, muốn xây dựng một thế hệ hiện tại cũng như tương lai cho các em thanh thiếu niên. Tiên Huynh không có phù linh phép lạ, không chước quỷ mưu thần, mà chỉ có một phép mầu tối thượng màTiên Huynh đã rút kinh nghiệm từ buổi sinh tiền đến nay đem ra hiến các em để làm bửu pháp hộ thân. Các em có nhận ra bửu pháp của Tiên Huynh chưa ?...
Đúng là Đạo Lý, các em ngoan lắm.
Đạo Lý không là vấn đề ru ngũ. Đạo Lý là một khuôn viên mẫu mực để un đúc chí quật cường tài đức của một tinh túy dân tộc. Đạo Lý là cơ bản của một quốc gia thái bình thạnh trị, nhưng phải hiểu thật sâu rộng rốt ráo mới thấy thâm diệu của Đạo Lý và hành đúng Đạo Lý.”(ĐỨC CAO TRIỀU PHÁT NMĐ, Tuất, 30.10.Đ.Mùi (1.12.67)
E. Hội nhập thế giới trong khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nhiều lãnh vực trên thế giới hiện nay, toàn đạo Cao Đài cần trang bị sẵn sàng những điều kiện để hành đạo hội nhập quốc tế theo tôn chỉ mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:
1. Không mê ngủ trong đức tin, đừng ảo vọng trong lý tưởng. Phải học hỏi rèn luyện không ngừng, vượt qua mọi thử thách mới có đủ bản lãnh hội nhập.
2.Muốn đại đồng cùng thiên hạ phải đại đồng cùng dân tộc trước đã ( Nói cách khác, muốn hội nhập cùng thế giới, phải hội nhập cùng dân tộc trước đã.)
3.Trong tinh thần “Vạn giáo nhất lý”, quan hệ tốt với tôn giáo bạn trong và ngoài nước. Nghiên cứu giáo lý các tôn giáo, các sinh hoạt tôn giáo trong nước và quốc tế. Tham gia các hội nghị tôn giáo trong nước và quốc tế liên quan đến đời sống xã hội văn minh tiến bộ và sinh hoạt tâm linh hướng thượng. .
4. Đối với quốc tế, vận động tín đồ tìm hiểu, tham gia các chương trình bảo vệ môi trường xanh trong nước và thế giới; các chương trình sức khoẻ cộng đồng. Trao đổi văn hóa với các dân tộc trong và ngoài nước .
“Phổ là rộng ra ngoài thề giới,
Thông là nguồn suốt tới muôn phương,
Giáo là dạy nẻo chỉ đường;
Lý là lẽ thật chủ trương thới bình.”
______________
ĐỌC THÊM
Tâm vật bình hành
http://www.nhipcaugiaoly.com/post?id=780

CHƯƠNG THỨ TƯ
I.TỪ TRUNG DUNG ĐẾN HOÀNG CỰC TỪ NHO TÔNG CHUYỂN THẾ ĐẾN THẾ PHÁP DI LẠC
II . CHÂN DUNG CON NGƯỜI KỶ NGUYÊN MỚI
III.Con người là ai ?
IV.CON NGƯỜI ĐẠI ĐẠO
@@@
Khai minh Đại Đạo để cứu độ vạn linh thời Hạ Nguơn này, Đức Thượng Đế Chí Tôn đã nêu lên Tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” và mục đích “Thế đạo đại đồng thiên đạo giải thoát” . Nhưng chiếc chìa khóa để triển khai tôn chỉ và thực hành mục đích, phải nhờ đến các Đấng Thiêng Liêng trui rèn bằng giáo pháp và đạo pháp hay giáo lý và pháp môn, lập thành Tân Pháp Đại Đạo.
Nói là Tân Pháp, nhưng kỳ thật là trùng hưng Cựu pháp cộng với Chánh pháp khai minh Đại Đạo bằng nguyên lý Thiên Nhân Hiệp Nhất hay nói dễ hiểu hơn là “Trời đến với chúng sanh để khai Đạo tự hữu trong lòng chúng sanh”. Chúng ta có thể chiêm nghiệm Chánh pháp ấy qua lăng kính Đạo học và Giáo pháp với đề tài: TỪ TRUNG DUNG ĐẾN HOÀNG CỰC và TỪ NHO TÔNG CHUYỂN THẾ ĐẾN THẾ PHÁP DI LẠC
1.Trung Dung: Nói đến đạo tự hữu của chúng sanh, Nho tông có sách Trung Dung đề ra thuyết Trung Dung rất mực cao siêu. Bởi vì Trung Dung vừa dạy Thế đạo vừa giảng Thiên đạo. Nên Đạo Học Chỉ Nam viết:
“Đạo Trung Dung là Đạo lớn của Trời đất vạn vật, cốt dạy người làm Thánh làm hiền. Trước hết, các bậc ưu thế mẫn thời muốn thi thố một việc nào để cứu nhơn độ thế, cũng phải tìm cầu cho được gốc lớn của thiên hạ là đạo Trung. Đạo Trung chính nó nơi thân mình. Nếu Trung ấy được hiện bày, thì làm được Thánh Nhơn, suốt lẽ đất trời muôn vật. Trung ấy căn cốt của mọi sự mọi việc, nên ở đâu, hay lúc nào, cũng trúng Đạo. Đem áp dụng vào đời, thi hành mọi việc không đâu chẳng nhờ cậy đẹp cả ý người lòng Trời, đầy dẫy sự sống, lẽ thật hiện ra.
Muốn chứng ngộ đạo Trung, không ngoài sự chánh tâm thành ý. Chuyên nhứt ở đạo Trung, thì Trung cho thấy quyền năng phép lạ. Trung không chỉ có nghĩa quân bình mà thôi, Trung là cho ta thấy một sự sống lớn bao hàm ở đâu và lúc nào cũng giữ được điểm then chốt làm căn bản cho Trời đất muôn loài.”
2.Lý Hoàng Cực: Nhưng khi đề cập đến con đường tiến hóa, trở về nguồn gốc (phản bổn hoàn nguyên) của vũ trụ vạn vật là Thượng Đế, là Bản Thể Chơn Như là Nước Trời thì ĐĐTKPĐ vận dụng Lý Hoàng Cực. Bởi vì Đạo có Vô Cực là Đại Bản Thể, Thái Cực là động năng khởi thỉ hóa sanh vạn vật, hiện bày Càn khôn thế giới. Nhưng Đạo vận hành miên miên bất tuyệt, không ngừng sáng tạo, bảo tồn, hủy diệt để thúc đẩy vạn hữu chịu đào thải những gì là cặn bả và chắc lọc những gì là tinh hoa cho đến khi hoàn thiên để trở về hội nhập cùng Bản Thể tuyệt đối. Cái công năng tiến hóa đó chính là Hoàng Cực, là ngôi thứ ba tiếp theo Vô Cực và Thái Cực. Các điều kiện hay các năng lương để cung cấp cho công năng này vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh, nhưng chủ nhân phải dụng công điều hợp mới phát khởi được. Ví như người đi xe máy làm bật lên tia lửa điện, máy mới nổ và xe mới lăn bánh. Nên ĐHCN viết: “Hoàng Cực là gì? Là chủ tể của âm dương, bảo hợp được lưỡng thể cương nhu, điều nhiếp không còn có trong ngoài”. Hai chữ “bảo hợp” nhắc chúng ta nhớ đến 4 chữ “bảo hợp thái hòa” của Kiền đạo theo Dịch lý là “Kiền đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa”; hoặc câu: “Trí Trung hòa vạn vật dục yên”. Nên ĐHCN viết:
“Trung là thể của hòa. Hòa là ngôi Hoàng Cực. Hoàng Cực là tổng hợp của hai thể âm dương, âm dương hườn thành một khí nguyên sơ.”
Về Đạo pháp, ĐHCN mượn hai chữ “Minh Lý” ( 明理) để hành giả lần dò vào Chơn đạo:
“Hoàng Cực là một thể tổng hợp, con đường qui căn phục mạng, chứng nhập Chơn Lý, là một pháp môn đốn ngộ, không ngoài hai chữ Minh Lý. Minh Lý là một bí quyết tối thượng, cái chìa khóa mầu nhiệm mở cửa bí mật cho nguyên căn, sớm đặng nhập Thánh siêu phàm. Pháp môn nầy từ ngàn xưa đến nay, chư Tổ, chư Thánh cũng do bí quyết nầy mà đạt chứng quả vô lậu bồ đề. Tuy đơn thơ có chỗ ẩn chỗ bày, hoặc đặt nhiều tên, mượn nhiều ví dụ, kỳ trung không ngoài hai chữ thần khí, âm dương, tánh mạng, ..v..v…”
3.Hoàng Cực và Thái Cực: Khi nói “Hoàng Cực là chủ tể của Âm Dương” chúng ta có thể hỏi “Vậy HC có khác gì Thái Cực ?” _Có khác vì Thái Cực là Bản căn sanh hóa ra vạn vật trên con đường vạn vật ra đi. Còn HC là chủ thể đang trên con đường trở về bản nguyên. Thế nên có danh hiệu “Hoàng Cực Chủ nhơn”. Thánh giáo có viết: “Hiện tình thế sự ngày nay, từ đời đến đạo, đều đảo điên phân tán, đó không phải đạo hay đời, mà là lòng người chẳng đặng an định trước cơn phong ba bão tố phũ phàng. Người thiếu nhân bản, thiếu lương tri lương năng, chỉ biết xu hướng theo vật chất hữu hình, quên mất ngôi Chủ Nhơn Ông Hoàng Cực. Cán cân công bình của nhân sinh đã chênh lệch. Con người và con người đuổi xô nhau vào hố thẳm vực sâu, quên mất bản linh chân tánh.” (Vạn Hạnh Thiền Sư Trúc Lâm Thiền Điện, (07 - 04 - Canh Tuất (11-5 -70)
Vậy Chủ Nhơn Ông HC chính là Ta, là Chân Ngã, cái Ta mà Đức Thế Tôn tuyên bố “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”. Nói một cách thực tế, dễ hiểu hơn, cái Ta làm chủ này phải chủ động làm những gì để xứng đáng là Chủ Nhơn Ông Hoàng Cực. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư giảng: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, đó là ngôi Hoàng Cực. Ngược lại dòng thời gian, [ . . . ] toàn cả nhân loại đã tiến bộ đến mức độ cao, vật chất thinh hành, tinh thần suy yếu, không còn giữ được lòng nhân trước tha nhân, không còn gìn chính nghĩa đối với nghĩa vụ, không còn nề nếp thượng hạ tôn ti phải trái đối với tư cách nhân vị nghi lễ một con người, không còn chủ trương hành động lương tâm để tròn đức trí, không còn gieo một niềm tin vào tha nhơn vào sự vật để đủ đức tín của con người. Như thế, từ bi, bác ái, công bình, chánh trực, đại đồng, đó cũng chỉ là lớp sơn phủ kín bên ngoài đó thôi.” (Trúc Lâm Thiền Điện. sđd)
4.Nho tông chuyển thế: Đến đây, chúng ta đã nói đến Trung Dung, Trung Hòa, nói đến Ngũ đức (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín) để luận về ngôi Hoàng Cực nội tại của con người trên đường tiến hóa, vô hình trung ta đã vận dụng cốt tủy của Nho tông trong phương môn “Nho tông chuyển thế của Tam Kỳ Phổ Độ”
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo từng dạy về sứ mạng Nho Tông chuyển thế trong sứ mạng chung của Tam giáo đạo thời Tam Kỳ Phổ Độ như sau:
“Nam phương Đại Đạo hóa hoằng,
Quy nguyên Tam Giáo lấp bằng hiểm nguy.
Trước Nho tông chuyển kỳ cứu thế,
Giúp con người thoát bể tệ đoan;
Làm cho người tỉnh mộng tràng,
Luân thường đạo lý mở màn phục hưng.
Chủ thuyết ấy chơn thuần vong ngã,
Trải mình cho thiên hạ làm nên;
Bảo sanh nhân nghĩa là nền,
Đại đồng nhân loại vững bền nước non.
Người có nhiệm vụ ở phần Nho Tông chuyển thế là Đạo trị thế.
Người có trách nhiệm về Thích Giáo, Lão Giáo là Đạo hoát khai tâm linh.
Hai con đường trị thế hay nhân sinh và tâm linh phải được thực hiện ngay trong kỳ đại ân xá này.( Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo), Tuất thời 26 tháng 8 Nhâm Tý (3.10.72)
Điều kỳ diệu là từ ngàn xưa các bậc minh Vương đã ứng dụng Nho tông để trị thế bằng cẩm nang “Hồng phạm cửu trù”. Mà HPCT là kế sách an bang tế thế được diễn dịch ra từ Lạc Thư. Hơn nữa, HPCT lại định ngôi Trung ương là Hoàng Cực. Thế nên ngôi Hoàng Cực trong trời đất, trong con người, trong kế sách định an thiên hạ đều là Ngôi Trung; nên Hoàng Cực còn gọi là Hoàng Cực Đại Trung. (xem hình)
4. NGŨ KỶ | 9. NGŨ PHÚC-LỤC CỰC | 2. NGŨ SỰ |
3. BÁT CHÍNH | 5. HOÀNG CỰC | 7. KÊ NGHI |
8. THỨ TRƯNG | 1.NGŨ HÀNH | 6. TAM ĐỨC |
Hồng Phạm Cửu Trù
1.Ngũ hành: am tường vật lý
2.Ngũ sự: Phường pháp tu thân
3.Bát chính: phương pháp trị dân
4.Ngũ kỷ: am tường lịch số
5.Hoàng Cực: thay Trời trị dân
6.Tam đức:Chính trực, cương nhu
7.Kê nghi: hội ý thần dân
8.Thứ trưng: xem xét đường lối cai trị khi có điềm Trời
9. Ngũ phúc, Lục cực: ảnh hưởng tốt xấu đến dân do tài cai trị của vua
Nên ĐHCN viết: “Hoàng Cực theo Cửu trù dựa đồ Lạc Thơ, vạch thành một hiến chương quyền pháp, đặt sứ mạng cho họ (các vì vua, các nhà cai trị-NV) chủ tể thay Trời trị dân. Bốn biển muốn thanh bình, phải dưới trên nhứt trí ở ngôi Trung, thì phúc lành được ban, chảy đến mười phương. Ơn Trời quyết ở nơi Hoàng Cực.
Hoàng Cực là trung tâm, sự sống của thiên hạ, mẫu mực bảo vệ giá trị nhơn cách của vạn dân. Con người phối đồng thiên địa, nhau rún là đó, tánh mạng ở đó, thưởng phạt nơi đó, còn mất do đó, trị loạn tại đó : Mọi việc đều ở đó.
Hoàng Cực là tối cao. Đó là nền móng chung, cửa thông công trong tam Cực. Đó là trung tâm của một quốc gia để bảo đảm cuộc sống còn và đẩy bước nhơn sanh lên đàng chánh giáo, hoàn thành thế đạo nhơn tâm, hưởng cơ thịnh trị.”
5. Thế pháp Di Lạc: Trên đây đã luận về Hoàng Cực nơi con người trên đường tiến hóa,và về Hoàng Cực trong đạo trị thế của Nho tông. Đó là luận về phần NHÂN, còn phần THIÊN do thiên cơ vận chuyển ứng với thời Hạ Nguơn để tái tạo đời Thánh đức hay thiên đàng tại thế, thì Hoàng Cực Chủ Nhơn chính là Đức Di Lạc Thiên Tôn sẽ thiết Long Hoa Hội là một đại cuộc phân phàm lọc thánh.
Thánh giáo Đức Vạn Hạnh Thiền Sư có viết:
“Những thành phần vô ích cho sự tái lập dinh hoàn, xây dựng đời Thượng Nguơn Thánh Đức sẽ lần lượt nối chân nhau tự diệt. Những cái hữu ích cho chánh đạo cứu đời, những cái còn sử dụng cho giai đoạn kết quả cuối cùng, những cái dùng để lập lại Thượng Nguơn mới hy vọng sống còn.
Cái tính chất bảo tồn, cái bản chất giữ lại, cái nguyên nhân xây dựng thế cuộc an bình là Đạo, là Hoàng Cực, là ngôi Di Lạc Thiên Tôn.
Ai muốn được như thế, ai muốn hiến mình lập thế Thượng Nguơn Thánh Đức, hãy học cho rõ lý Hoàng Cực, hãy thi hành Vương Đạo. Hoàng Cực hay Vương Đạo là ngôi Di Lạc Thiên Tôn. Danh từ này cũng là một đại đồng tiểu dị.
Hỡi thế nhân ! Di Lạc Thiên Tôn Hoàng Cực Chủ Nhơn là ngôi Thánh Thần, là ngôi Hội Đồng phán xét, là ngôi của Tòa Tam Giáo, cũng là ngôi của cuộc đời. Đã đến lúc đem cuộc đời để quản trị cuộc đời, đem dục vọng để hủy diệt dục vọng. Vì thế nên Di Lạc Thiên Tôn thời Hạ Ngươn mạt pháp này có khác hơn Di Lạc ở thời Thượng Ngươn Thánh đức. Có lẽ chư đạo hữu rất phân vân lời nói của Bần Tăng ?
Chư đạo hữu ! Nếu có một Di Lạc thực sự bằng xương bằng thịt đến thế gian trong kỳ Nguơn Hạ này, tất cả cũng sẽ bị đóng đinh trên thập giá. Thời Thượng Nguơn Thánh Đức đến sau, các Giáo Chủ mượn thể xác giáng trần, trước đây mấy ngàn năm chúng sanh còn bản chất thuần chơn mà còn như thế, thì thử hỏi hiện giờ nhơn tâm quá ư loạn lạc, sẽ còn nhiều trò độc ác gớm ghiếc hơn nữa.
Di Lạc Hạ Nguơn là thế pháp sửa loạn thành trị, đổi cùng thành thông, chuyển bỉ thành thới.
. (TLTĐ, 07-4-Canh Tuất (11-5-1970) .
Tóm lại “Từ Trung Dung đến Hoàng Cực, từ Nho tông chuyển thế đến Thế pháp Di Lạc” là Tổng Pháp Môn, ở nơi người thực hành “qui căn phục mạng”, trong thế gian là chấp trung chuyển thế, trong trời đất là “chu nhi phục thỉ”. Sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ sẽ trao cho những ai là Chủ nhơn Hoàng cực của chính mình để hội nhập vào Thiên cơ mà Hoàng Cực Chủ Nhơn Di Lạc Thiên Tôn đang điều ngự giữa thời Hạ Nguơn.
Để thay lời kết luận, xin mời quí vị nghe Kệ của Đức Di Lạc Thiên Tôn
ĐƯƠNG nhiên đạo pháp vị nan cầu,
LAI vãng hồng trần độ ngũ châu;
HẠ giới mê nhơn trầm khổ hải,
SANH môn suất tánh đoạt thành sầu.
DI Đà nhứt cú tri phương thức,
LẠC cảnh Tam Tông hóa nhiệm mầu;
TÔN thượng triều nguơn ban Thánh Đức,
PHẬT Tiên Thần Thánh cộng ca âu.
(Trúc Lâm Thiền Điện, Ngọ thời 20 tháng 8 Ất Tỵ)
_______________
Kỷ niệm Minh Lý Đạo Khai năm thứ 89
Tam Tông Miếu, ngày 26 tháng 11 năm Tân Mão
(22-12-2011)
_____________________
I I. CHÂN DUNG CON NGƯỜI KỶ NGUYÊN MỚI
Vũ trụ luận Đại Đạo đề cập đến vũ trụ như một tổng thể bao gồm cc đối tượng khả nghiệm v siu nghiệm đối với khả năng nhận thức của con người (vũ trụ, như một tổng thể, thường được gọi l Cn Khơn thế giới, Thin Địa Cn Khơn, vũ trụ Cn Khơn,…)
Vũ trụ luận Đại Đạo đưa ra cc quan niệm về nguồn gốc, sự vận động v biến hĩa, sự tiến hĩa của vũ trụ trong chiều hướng rt ra cc nguyn lý, cc quy luật chung của sự tồn tại v tiến hĩa của vũ trụ, nhất l cc nguyn lý v cc quy luật dẫn đạo cho sự tiến hĩa của con người đến tầm kích vũ trụ, tức l đưa con người từ vị thế hữu hạn trong khơng gian, thời gian vượt ln tới vị thế con người muơn thuở muơn phương.
Trong quá trình lịch sử nhân loại song song với lich sử các tôn giáo, loài người đã đi dần đến sự tổng hợp những truyền thống đạo đức , những nền giáo lý lâu đời để áp dụng vào đời sống sao cho có nhân nghĩa, có hạnh phúc và tiến hóa.
Con người thấm nhuần đạo lý, thể hiện được những phẩm chất cao đẹp trong lối sống, lối làm việc trong niềm tin, niềm hy vọng hằng ngày và trọn đời đã hình thành một chân dung chung của con người thời đại mình.
Nay, nhân loại sẽ bước sang kỷ nguyên mới của thiên niên kỷ kế tiếp. Đây là một khúc quanh vô cùng quan trọng do những dự báo thay đổi lớn lao từ tinh thần đến vật chất trong đời sống loài người.
Từ đà phát triển, tiến bộ cực kỳ nhanh chóng trên mọi lãnh vực liên quan trực tiếp đến sự sống, cách sống, cách làm việc của con người trong những thập niên cuối thế kỷ này, thế giới có đủ cơ sở để chuẩn bị đón nhận những thế hệ con người mới trong kỷ nguyên mới.
Chân dung con người mới của kỷ nguyên mới chắc hẳn chưa phai mờ những nét đẹp di truyền bao thế hệ của tổ tiên, nhưng cũng sẽ bộc lộ một tâm hồn trẻ trung, đầy sức sống và nhạy cảm với thời đại.
A.. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA KỸ NGUYÊN MỚI :
A.1. Các ưu thế :
1. Khoa học kỹ thuật cực kỳ tiến bộ. Đời sống vật chất ngày càng cao. Mọi tiện nghi, phương tiện gia tăng chất lượng bội phần.
2. Công nghiệp phát triển, lối sống công nghiệp chiếm ưu thế. Mọi ngành làm việc hiệu quả hơn, chính xác hơn, lợi nhuận tầm cở quốc gia, quốc tế phát triển mạnh.
3. Tri thức hiện đại được tôn vinh làm thống soái.
4. Thông tin bùng nỗ, văn hóa hội nhập, giao lưu nhanh chóng.
Tương quan giữa các quốc gia dân tộc ngày càng sâu sắc, rộng rãi và mạnh mẽ.
5. Tư tưởng Đông Tây hòa nhập; khuynh hướng phục hồi các giá trị đạo đức cổ truyền và đời sống tâm linh.
A.2. Các vấn nạn :
1. Các vấn đề nhân quyền.
2. Các vấn đề đạo đức xã hội nhân loại; những hậu quả do các nhân sinh quan truyền thống bị lu mờ :
- Stress.
- Bạo lực
- Trác táng
- Ma túy.
3. Khủng hoảng kinh tế; nghèo đói
4. Chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc.
4, Khủng hoảng ý thức hệ, khủng hoảng tín ngưỡng, tôn giáo và đời sống tâm linh.
A.3.. Các mẫu người lệch lạc con đẻ của thời đại :
1. Người hiện đại hóa bề ngoài, thiếu sáng tạo, vô ý thức.
2. Người mất định hướng trong kiến thức do thông tin tràn ngập
3. Người máy móc, rô bô sống, khô khan tình cảm, mất nhân tính.
4. Người bụi đời, lang thang vô gia đình.
5. Người bị ẩn ức và dồn nén, hoảng loạn.
6. Người ảo tưởng,; người cực đoan; người có khuynh hướng bạo lực.
B.. NHỮNG GIẢI PHÁP
Từ các vấn nạn và hệ quả nêu trên, kỷ nguyên mới phải có giải pháp cho các đối tượng :
. Người mất phương hướng và máy mọc là loại người vong thân, vong bản.
. Người chỉ biết hưởng thụ, trụy lạc, người chọn lối sống hiện sinh , là loại người tự diệt.
. Người lý tưởng cực đoan, sẽ trở nên ảo tưởng, bi quan, hành động bạo lực hay rối loạn tâm thần.
Những biện pháp ngăn chặn :
1. Phong trào phục hưng truyền thống dân tộc, về nguồn - quay lại nếp sống gia đình.
2. Xây dựng nền giáo dục toàn diện, vừa thực dụng vừa có bản chất nhân văn, khai phóng, sáng tạo.
3. Xây dựng ý thức hệ quân bình tinh thần vật chất, quân bình tâm linh và nhân sinh.
Những đóng góp của các tôn giáo :
Các tôn giáo,vì mục tiêu cứu độ nhân sanh đương nhiên có trách nhiệm xây dựng lại con người chính danh, góp phần cùng các tổ chức nhà nước, các ngành chức năng quốc gia và quốc tế.
Trong những giải pháp nêu trên, điểm nào các tôn giáo cũng có khả năng tham gia. Nhưng trước hết các tôn giáo phải tự khẳng định sứ mạng phục hồi Nhân bản bằng các nguyên lý sau đây :
1. Con người là siêu sinh vật, là hạt nhân của vũ trụ.
- Nho giáo nói : "Nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỉ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí dã"
- Thiên địa chi đức : con người là kết quả sinh thành và bảo tồn của trời đất
-Âm dương chi giao: tương hòa tương hợp quân bình âm dương.
- Quỉ Thần chi hội : sự hội tụ của tình cảm-lý trí và tâm linh.
- Ngũ hành chi tú khí : kết tụ tinh hoa của vật chất.
2. Đời người là một giai đoạn tiến hóa, là một thời gian quí báu để tiến về viễn đích cao đẹp. Phải quí trọng và tận dụng đời người.
3. Sứ mạng làm người là hoàn thiện bản thân, hoàn thiện người khác và phụng sự xã hội.
4. Tôn giáo chân chính phải soi sáng nhân vị, bảo vệ nhân quyền, chỉ cho nhân loại mục tiêu tiến hóa tối thượng là Thượng Đế, là Niết Bàn chứ không mê hoặc con người làm kẻ nô lệ cho bất cứ một thần quyền nào.
C. VẬN DỤNG NHỮNG TIÊU CHUẨN ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀO CUỘC ĐÀO TẠO NHÂN CÁCH CON NGƯỜI HIỆN ĐẠI :
1. Làm thế nào đạt được đức Nhân, đức Trí theo Nho giáo :
1.1. Thời đại này thường coi trọng Trí, bỏ quên Nhân. Nhân là giá trị chủ yếu, quyết định địa vị làm người. Vậy phải đào tạo con người có đức Nhân.
Ngày nay, muốn dạy người tu thực hành đức Nhân như Khổng Tử nói " Nhân giã Nhân dã" hay phát huy tính thiện như Mạnh Tử nói "Nhân chi sơ tính bổn thiện", không thể dạy dùng trực giác mà nhận thức được.
Phải có các Khoa Đạo Đức học, xã hội học, phân tích kỹ tâm lý con người, bản chất con người, bản năng con người, cuộc sống con người để người học hiểu rõ chính mình và hiểu rõ người khác mới có thể triển khai Đức Nhân.
1.2. Muốn đào tạo người Trí cũng thế.
Ngày nay tri thức con người có đủ điều kiện để mở mang trên mọi lãnh vực.
Ngay cả ngồi trong nhà, người ta cũng có thể tìm hiểu, học hỏi mọi ngành, mọi sự kiện và vô số thông tin cập nhựt trên toàn thế giới.
Nhưng vấn đề là cái TRÍ, cái BIẾT, rộng rãi ấy sẽ được dùng để làm gì. Nếu không thì những thứ trí thức đồ sộ kia cũng chỉ là một đống sách vỡ ngỗn ngang.
Xưa, Trang Tử nói : "Bất xuất hộ tri thiên hạ, bất khuy du kiến thiên địa" (Không ra khỏi nhà mà biết được xã hội; không nhìn qua khe cửa mà biết được trời đất)
Vậy cái biết của Thánh nhân là cái biết các nguyên lý chi phối con người và xã hội. Biết được các qui luật của trời đất. Đó là cái Biết căn cốt để vận dụng mọi cái biết khác sao cho ích nhơn lợi vật. Đó là biết Đạo.
Một nền giáo dục tiến bộ phải vừa có khả năng trang bị đầy đủ, kịp thời mọi kiến thức cần thiết cho con người, vừa đào tạo được con người có định hướng tiến bộ và đạo đức. Đó là nền giáo dục có tính nhân văn đậm đà, có bản sắc văn hóa phong phú.
Do vậy, ngoài tri thức phong phú đa dạng, con người kỷ nguyên mới cần có khả năng tư duy nhất quán cho cứu cánh Tiến hóa nhân bản.
2. Có thể nào vận dụng chủ thuyết Lão Trang để chuyển hóa bản năng của con người thời đại ?
Xưa nay các triết thuyết, giáo thuyết Đông Tây đều nhìn nhận trong mỗi người có hai tác năng chính chi phối đời sống vật chất lẫn tinh thần là :
- Bản năng (Dục)
- Lý trí (Lý)
Đó là hai đối lực luôn luôn giằng co trong con người.
- Bản năng thắng thì con người nhiều dục vọng dễ dẫn tới tội lỗi.
- Lý trí thắng thì con người tự chủ mọi sinh hoạt theo cung cách được xã hội chấp nhận để tiến bộ.
- Nhưng đối với đại đa số người đời, không thể nói một cách tuyệt đôi là "Thường vô dục" như Đạo đức Kinh để kềm chế bản năng hay "Tuyệt học vô ưu" để trở nên minh triết.
- Vậy có thể "thiểu tư quả dục" (ít riêng tây, giảm ham muốn) được chăng?
Chữ "thiểu", chữ "quả" ám chỉ giảm bớt, tự giới hạn, không quá đáng.
Thế thì phải chăng cái triết lý sống của con người thời đại là triết lý “ Đạo thường “ của người xưa để luôn giữ thế quân bình nơi bản thân và trong tương quan xã hội.
3. Mối quan hệ của con người thời đại với cộng đồng xã hội và cộng đồng nhân loại như thế nào ?
Ngày nay và hơn nữa trong kỷ nguyên mới, con người phải đứng vào cộng đồng, trở nên một thành tố trong tổng thể cộng đồng mới có thể phát triển được.
- Trong môi trường sản xuất, thị trường, kinh tế.
- Trong giao lưu văn hóa.
- Trong khoa học công nghệ.
- Trong ngôn ngữ
- Trong môi trường sống…
Rồi đây không còn ai, không còn quốc gia nào có thể vị kỷ riêng tây được nữa.
Vậy con người thời đại mới là người của các cộng đồng, người của muôn phương, hay "Đồng Nhân" theo ý nghĩa của Quẻ Dịch "Thiên Hỏa Đồng Nhân" vậy.
4. Đời sống tâm linh của con người kỷ nguyên mới như thế nào ?
Hai chữ Tâm linh quá trừu tượng, quá bao quát, thuộc về nội tâm con người lẫn cả thế giới vô hình.
Nhưng, nếu chúng ta đặt vấn đề thực tiễn hơn, thì sẽ thấy đời sống tâm linh có thể biểu hiện bằng nhiều mức độ một cách tự nhiên.
* Là Tình cảm thiêng liêng hướng về ông cha, tổ tiên, tổ quốc mà ai cũng có, bất luận là có tôn giáo hay không tôn giáo.
.
* Là quan năng minh triết : Quan năng này là kết quả của một quá trình rèn luyện có phương pháp và có cơ sở khoa học về sinh lý, tâm lý và đạo đức, được gọi là đạo học hay thiền học.
Có hay không mang mặc các hình thức tôn giáo thì quá trình ấy vẫn đem đến kết quả minh triết nếu ta vẫn chấp hành nghiêm túc các phương pháp.
*Tín ngưỡng và Đức tin : Con người kỷ nguyên mới, có lẽ sẽ không nên đặt vấn đề đúng sai đối với tín ngưỡng và đức tin….Điều quan trọng là phải nhớ rằng:
Những tôn giáo chân chính, những bậc Giáo Tổ và Thánh hiền xưa nay không hề dạy con người phủ nhận giá trị làm người và kiếp người. Các Ngài dạy giác ngộ cái Đạo tự thân để hành Đạo ấy, trở nên hoàn thiện.
Không có sự tiến hóa nào mà không có quá trình chuyển hóa gian khổ. Đó là qui luật của vũ trụ.
Ngược lại người không có tín ngưỡng không phải là người tội lỗi,. Hơn nữa họ vẫn có thể làm nên những sự nghiệp vẽ vang theo một lý tưởng trong sáng và cao thượng. Lý tưởng ấy chính là Đức tin của họ.
III. NHỮNG NÉT LỚN CỦA CHÂN DUNG CON NGƯỜI KỶ NGUYÊN MỚI.
1. Đức Nhân Xã Hội Hóa :
Đức Nhân là giá trị nhân bản muôn thuở của con người từ nghìn xưa đến nghìn sau.
Đức Nhân con người kỷ nguyên mới không phải chỉ là lòng trắc ẩn, lòng thương hai, là cái gì mình không muốn thì không làm cho người khác.
Đức Nhân thời đại này là Đức Nhân Xã Hội Hóa, là thiện chí cải thiện con người, cải thiện xã hội để mỗi người đều có thể sống xứng đáng với cương vị làm người của mình.
(Ví dụ : - Ca sĩ Luciano Pavarotti trước đây được Phó Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc khen là "người dùng giọng ca của mình làm sứ giả hòa bình".
- Gương nhân ái của Mẹ Theresa mất ở Ấn Độ năm 1997.
- Ví dụ chương trình xóa đói giảm nghèo của các tổ chức từ thiện phi chánh phủ trên thế giới )
Thế nên Thánh giáo có dạy :
Vào cõi đời bảo sanh nhân nghĩa,
Cùng mọi người gieo tỉa tình thương;
Biết rằng thế sự vô thường,
Phải dùng cái đạo hằng thường dưỡng nuôi.
(Đức Đông Phương Chưởng Quản 15.6.C.Thân),
2. Đức trí toàn diện và nhất quán với định hướng xây dựng tiến bộ:
Kỷ nguyên mới sẽ cung cấp cho con người vô số kiến thức. Nhưng kiến thức toàn diện không phải là tri thức đa tạp, hỗn độn mà nó phải xác định được các nguyên lý để ứng dụng sao cho con người phát huy được nhân văn, nhân tính, đạt được cuộc sống an lạc - tiến bộ.
(Ví dụ :một số nước như Singapore, Nhật xây dựng nền giáo dục tổng hợp tinh hoa Nho giáo với khoa học công nghệ hiện đại, đã đào tạo được những thế hệ công dân có năng lực xây dựng đất nước rất hiệu quả.
(Ví dụ nhà bác học Jaques Cousteau của Pháp)
(Một ví dụ ứng dụng tri thức phiến diện: Sự kiện đem kỹ thuật sinh sản vô tính áp dụng cho người là trái đạo lý.)
Nên Thiêng liêng từng nói :
Nào Kim Cổ Đông Tây đủ mặt,
Dù dở hay chưa chắc ai toàn;
Chi bằng hợp trí mưu toan,
Họa may thấy được vinh quang thanh bình.
(Đạo Học Chỉ Nam )
3. Nhân cách Bình Hòa, không cực đoan, không suy thoái.
Khoa học đã chứng minh qui luật quân bình hay cân bằng là điều kiện tồn tại và ổn định của vạn vật vũ trụ. Như Sách Trung Dung có viết :
" Trung dã giả, thiên địa chi đại bản dã, Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã".
Bởi vậy kỷ nguyên mới không chấp nhận những con người cực đoan bất cứ trong trạng thái sinh hoạt nào.
- Người quá theo lý trí sẽ trở nên khắc nghiệt.
- Người quá thiên tình cảm sẽ trở nên mềm yếu.
- Người tự tôn bản sắc sẽ trở nên kỳ thị, thù nghịch.
- Người lý tưởng cực đoan sẽ trở nên phát xít.
- Người tín ngưỡng cực đoan sẽ trở nên cuồng tín.
Một thảm trạng điển hình là cuộc hôn nhân giữa đôi trai gái của hai sắc tộc khác nhau tại Pakistan (Kanwar Ahsam và Riffat Afridi) đã bị kết án và thậm chí chú rễ đã bị mưu sát bằng 3 phát súng !)
Còn biết bao thảm cảnh do tính cách cực đoan của con người trong gia đình, trong xã hội và trên thế giới. Nên có Thánh giáo :
Tâm mất hẳn quân bình lẽ sống,
Còn biết đâu nòi giống thân yêu;
Quốc phong luân lý đỗ xiêu,
Đạo người như đã biến tiêu bao giờ !
(Đạo Học Chỉ Nam)
4. Tính đại đồng hợp tác đa phương:
Ngày nay "đại đồng" không còn là một chủ thuyết hay giáo thuyết mang tính chất đạo đức truyền thống, tính nhân đạo đơn thuần mà nó đã trở nên qui luật tồn tại và phát triển.
Đại đồng không chỉ là vị tha, là tình thương vô phân biệt mà còn là phương cách cộng tồn trong xã hội và trên thế giới.
Con người kỷ nguyên mới nếu không có tinh thần hợp tác là tự mình cô lập, sẽ tụt hậu và mất khả năng phát triển.
Ví dụ trong y thuật, thầy thuốc luôn luôn phải hợp tác với nhiều bộ phận: sinh học, hóa học, dược học, phân tâm học mới chữa khỏi được bệnh của một bệnh nhân nhứt định nào đó.
Như thế, nếu không hợp tác với cộng đồng thì không tránh khỏi thất bại…
Đời là nơi rồng mây tiến hóa,
Người vào đời chọn ngả chánh trung;
Thế gian góp mặt thư hùng,
Điểm tô non nước, vẫy vùng rồng mây.
(Đức Giáo Tông Vô Vi,14.2. C.Thân)
5.Tôn trọng và phát huy nhân bản :
Nhân bản là tình cảm thiêng liêng gắn bó giữa con người với những gì, những ai trong chiều dài lịch sử, un đúc nên con người mình, tạo thành một chủ thể "Người" với đầy đủ các bản sắc nhân văn của gia đình, dân tộc và nhân loại.
Nhân bản cũng là khả năng góp phần sáng tạo xây dựng những sự nghiệp có giá trị, chân thiện mỹ cho dân tộc, cho nhân loại.
Con người thiếu tình cảm thiêng liêng nói trên thì trở nên lạc lỏng, máy móc, như đứa con hoang của xã hội.
Con người không phát huy được Nhân bản, không dựa vào Nhân bản dễ đi đến phản kháng lại xã hội, thù nghịch nhân loại, trở nên kẻ nỗi loạn, kẻ ngược đãi người khác, kẻ diệt chủng…
Người nên người là chủ lấy thân;
Người xứng người đứng trong hoàn vũ,
Người là muôm mặt cân phân,
Lý tình gồm đủ, hình thần câu diêu.
(Đạo Học Chỉ Nam)
* * *
Để kết luận, xin nêu hai ý kiến của Triết gia BERTRAND RUSSELL về tương lai nhân loại.(B.Russel sinh năm 1872 ở Anh, mất năm 1970, là triết gia được xem là "chiến sĩ Hòa Bình" và " triết gia Nhân bản nhất của nhân loại" .Ông mất lúc trên bàn viết còn dang dở bài báo chống chiến tranh Việt Nam)
1. Điều bi thảm nhất cho nhân loại là (nếu như không bị tiêu diệt do thế chiến thứ ba) Nhân loại sẽ bị "đội ngũ hóa" nghĩa là đời sống nhân loại sẽ bị công thức hóa , không còn tự do, không còn khả năng sáng tạo nữa ...
Một đời sống như thế sẽ trở nên cứng nhắc, chai lì, cố định, không còn sinh khí.
2. Niềm hy vọng của nhân loại ở tương lai là biết từ bỏ hay giảm bớt dục vọng để phục vụ cho cái thiện.
Triết gia B. Russel để lại một thông điệp cho nhân loại rằng:
"Nhờ tri thức của quí vị, quí vị có những khả năng mà trước kia nhân loại không có. Quí vị có thể dùng những khả năng đó cho cái thiện cũng như cái ác.
"Quí vị sẽ dùng nó cho cái thiện, nếu quí vị nhận định được tính huynh đệ của mọi người, nếu quí vị hiểu được rằng hết thảy chúng ta có thể sung sướng chung với nhau hoặc khổ sở chung với nhau…"
Và Ông B.Russel cho rằng một nền giáo dục thông minh sẽ giúp cho con người nhận định được điều đó.
Hai ý kiến trên của B.Russell khiến cho chúng ta thấy chân dung của con người kỷ nguyên mới theo ước mơ của ông là con người văn minh, hồn nhiên và hướng thiện.
Có điều ông là một người rất bài xích tôn giáo mà lại hy vọng có một nền giáo dục lý tưởng để đem lại cho nhân loại cuộc sống hồn nhiên và đầy thiện tính đó.
Vậy các tôn giáo nhân bản hãy đáp lời ông rằng chính tôn giáo sẽ góp phần rất lớn cho nền giáo dục đó, nếu không nói rằng chính sứ mạng tôn giáo sẽ làm nảy nở cái mầm sống trong tâm hồn nhân loại mà Đức Diêu Trì Kim Mẫu gọi là :
Là mầm sống, là nguyên thần,
Là Trời, là Đạo, là Nhân của người.
Và Đức Thái Thượng Đạo Tổ gọi là : Căn, là Mạng.
Phù vật vân vân, các qui kỳ căn,
Qui căn viết tịnh, tịnh viết phục mạng,
Phục mạng viết thường.
(Đạo Đức Kinh - Chương 16)
Tạm dịch :
Dẫy đầy muôn vật khắp nơi,
Vần xoay mỗi mỗi về nơi gốc lành.
Gốc lành là chỗ tịnh yên,
Yên rồi mới được, mới nên mạng trời.
Mạng trời bền vững muôn đời!
( Bài TMGL vào ngày Rằm tháng hai năm Mậu Dần 198 ____________________
III. Con người là ai ?
Lịch sử của tư tưởng nhân loại là một hành trình tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi muôn đời về sự hiện hữu của con người:
Ta là gì? Ta là ai?
Ta từ đâu đến thế giới này?
Ta đến thế giới này để làm gì?
Ta sẽ đi về đâu, sau khi từ giã thế giới này?
Theo giáo lý Đại Đạo, những câu hỏi này chỉ có thể tìm được lời giải đáp trong đạo lý, hơn nữa, những lời giải đáp ấy chỉ có ý nghĩa đối với con người khi chúng vượt ra khỏi bình diện lý thuyết để trở thành niềm tin và hành động của chính con người.
Bởi vậy, giáo lý Đại Đạo lấy con người làm chủ điểm của tư duy và hành động. Là chủ điểm của tư duy, con người được lý giải về sự hiện hữu của mình để nhận thức được nguyên căn, hiện trạng và cứu cánh của mình trong cõi thế gian. Là chủ điểm của hành động, con người được giao phó sứ mạng của mình trước vạn linh, và được dẫn dắt để thực hiện chu toàn sứ mạng cao trọng đó.
Qua chủ điểm này, giáo lý Đại Đạo chỉ ra cho chúng ta một con đường siêu sinh ngay trong những lời giải đáp đối với những câu hỏi nói trên của nhân loại. Con đường ấy được gọi là Đại Đạo.
Từ đó, giáo lý Đại Đạo giúp chúng ta hiểu rằng, con người và Đại Đạo thật sự là một.
A. Định nghĩa về con người
Bài kinh Tắm Thánh trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chứa đựng một lời giải đáp cho câu hỏi “Con Người là gì?” trên nhiều phương diện: về trình độ tiến hóa, Con Người là phẩm vị tối linh trong vạn vật; về bản thể, Con Người là Phật tiềm ẩn; về cơ cấu xác thân, Con Người là một Càn Khôn vũ trụ; về sứ mạng, Con Người là một tác nhân vận hành cơ chuyển thế.
Về nguồn gốc, “Con Người là Đạo.”[1]
Như trong Kinh Tắm thánh đạo Cao Đài có viết :
. . .”Con người đứng phẩm tối linh ,
Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi .
Đại Từ Phụ từ bi tạo hóa ,
Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn .
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn ,
Xây cơ chuyển thế bảo tồn Vạn linh “.] . . .][2]
Về quyền năng, Con Người là “một tạo hóa trong Tạo Hóa.”[3].
Vậy, Con Người làmột phạm trù đạo lý, được dùng để chỉ chủ thể tự do đang hiện hữu ở một phẩm vị tối linh trong cơ tiến hóa, mượn hình thể hữu vi của một cơ cấu tiểu vũ trụ để khai phóng một quyền năng siêu việt, hầu thực hiện sứ mạng cộng tác với Thượng Đế mà tá trợ cho vạn vật.
B. Bản vị của con người
“Vạn vật trong vũ trụ không vật nào hơn hay kém. Trước sau đều đồng một thể là Chơn Linh lập đời, định thể, đặng các phẩm Tiên Phật có nơi học hỏi và thi dụng tài năng, hầu tô điểm thêm phẩm giá Thiêng Liêng Vị.”[4]
Bản vị có nghĩa là thước đo, là mẫu mực, là tiêu chuẩn.
Con người là một bản vị cao quý trong Trời Đất; hay cũng thế, con người là một thước đo khách quan, một tiêu chuẩn phổ quát để đo đạt giá trị và ý nghĩa của vạn vật cũng như của chính bản thân con người.
Tâm tạo nên bản vị của con người; tùy theo trạng thái của tâm mà bản vị con người thể hiện giá trị và ý nghĩa của thế giới. Nếu tâm mê vọng, thế gian sẽ thị hiện như bể khổ sông mê; nếu tâm giác ngộ, thế gian trở thành trường thi tiến hóa. Thật sự, bể khổ sông mê hay trường thi tiến hóa cũng chỉ là những hệ quả biến hiện theo sự nhận định của từng trạng thái vô thường của thước đo tâm thức, chứ bản thân cuộc đời chưa hẳn đã mang một sắc thái nào của riêng mình:
“Tự tánh thiên nhiên không làm cho cuộc đời là giả tạm, mà chính chỗ dục vọng của con người mới biến đời là tạm bợ mà thôi.”[5]
Do đó, giá trị và ý nghĩa của con người là do chính con người tự tạo ra. Khi biết tìm hiểu cho thấu đáo đạo lý, đạt được cái mấu chốt trong sự liên hệ giữa mình và Thượng Đế, thì con người sẽ tự mình lập vị cho chính mình dễ dàng:
“Con người, khi hiểu thông đạo lý, tìm được mấu chốt là cái chìa khóa liên hệ giữa người và Trời, thì con người sẽ tự tu, tự tạo, tự lập, tự tiến cho mình trở nên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật dễ dàng.”[6]
C. Quyền năng con người
Con Người là một quyền năng tối thượng trong vũ trụ, ngang bằng với Trời Đất. Quyền năng đó là quyền tạo hóa mà con người được nhận lãnh để ngự trị thếgian:
“Các con, hay nói chung là nhân loại, những hột giống linh căn được chọn gieo vào vũ trụ, được ban phát quyền tạo hóa, để lập thành cuộc ngự trị cõi thế gian.”[7]
Với quyền năng tối thượng mà Thượng Đế đã ban trao, con người có thể hiểu được cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa, biết được cội nguồn sự sống của vạn vật:
“Con người là vật tối linh,
Đoạt cơ Tạo Hóa, thông tình vạn sanh.”[8]
Do quyền năng đó: mỗi con người đều có thể làm được tất cả những gì Phật, Tiên, Thánh, Thần đã làm để tạo thành cảnh thiên đàng nơi cõi thế:
“Người có thể làm được những việc Phật Tiên Thánh Thần đã làm, cũng chính bàn tay người có thể tạo lập một cảnh thái bình an cư lạc nghiệp, có thể nói là thiết lập một cảnh thiên đàng tại thế gian cho muôn dân đều cộng hưởng.”[9]
Quyền năng ấy không phải là quyền lực thường tình, mà chính là sự tự do của chơn tâm. Sự tự do này có nghĩa là không để cho tâm tư bị ràng buộc, câu thúc, cưỡng ép bởi một nguyên cớ nào.
Như vậy, sự chủ sử của Tiểu Linh Quang, của bản thể tâm linh tự hữu là nguồn gốc của quyền năng nơi con người.

SƠ ĐỒ CON NGƯỜI ĐẠI ĐẠO (Toàn diện)

.png)
.png)

D,. Sứ mạng con người
Theo giáo lý Đại Đạo, con người là:
“Một chúa tể chấp trì vạn hữu,
Một quyền năng ban phú vạn sinh;
Một trong thiên địa tài thành,
Một trong nhơn vật dữ lành định phân.”[10]
Vậy, con người còn là một sứ mạng cao trọng, một bổn phận thiêng liêng trong vũ trụ. Sứ mạng ấy là thực hiện đạo tài thành của Trời Đất, nghĩa là góp tay vào những công trình mà Tạo Hóa đã kiến thiết nên để làm cho những công trình ấy được hoàn thành một cách hoàn hảo.
Đó không phải là sứ mạng của riêng một cá nhân nào, mà là sứ mạng chung của con người. Mỗi một cá nhân và toàn thể nhân loại đều phải chia sẻ và đảm trách sứ mạng chung đó:
“Mỗi người đều có sứ mạng riêng của mỗi người, tất cả nhân loại đều là sứ mạng trong trường tiến hóa này.”[11]
Đã sinh ra trong kiếp vi nhân, thì bất kể Nguyên Nhân hay Hóa Nhân, tất cả đều có một vai trò cao trọng trong đại thể của vũ trụ và nhân sanh. Vai trò ấy là thực hiện thiên chức của một phẩm vị tối linh trong vạn vật, tạo dựng nên một sản nghiệp tinh thần tốt đẹp nơi thế gian này:
“Con người vừa lọt lòng mẹ là đã thọ ơn của đất trời, của nhân loại rồi. Nếu không làm hoặc để lại một sản nghiệp tinh thần tốt đẹp gọi là trả ơn Đất Trời, đáp nghĩa nhân loại, đó là hàng ký sinh trùng không hơn không kém, chớ còn chi gọi là hàng tối linh trong vạn vật.”[12]
Muốn thực hiện được sứ mạng thiêng liêng của mình, mỗi người phải quay về tìm lại chủ nhân ông của mình, là Tiểu Linh Quang trong tự tại. Chỉ khi nhìn nhận và sống với cái sống của Linh Quang, con người mới thật sự là con người theo đúng ý nghĩa của phạm trù đạo lý này, và mới thực hiện nổi Thiên mạng của mình trong thế giới hữu hình:
“Biết nhìn nhận chốn khởi sanh,
Mới nên được đạo tài thành Hóa Công.”[13]
Kết luận
Một cách tổng quan, Con Người là một phạm trù đạo lý, trong đó, mỗi cá nhân là một Thượng Đế trong tiềm thể đang tiến hóa. đến Thượng Đế duy nhất trong hiện thể.
Trước khi đến với cuộc đời này, con người là một điểm Linh Quang của Thượng Đế, do Thượng Đế phân chiết ra trong bản tính tự do, được ban trao sẵn một quyền năng tạo hóa, mượn vật chất vô thường để thể hiện đạo lý của vũ trụ Càn Khôn và làm phương tiện nhập thế hầu bồi công lập đức trong cơ tiến hóa.
Khi bước chân vào và hiện diện trong cuộc đời này, mỗi người đều có một sứ mạng thiêng liêng là thực hiện đạo tài thành trong Trời Đất để hoàn hảo hóa những gì đã được Thượng Đế kiến tạo. Trong sứ mạng đó, mỗi cá nhân không những phải tự tiến hóa, mà còn phải cộng tác với Thượng Đế để trợ giúp cho sự tiến hóa của vạn vật.
Vậy thì, mỗi cá nhân sẽ về đâu sau khi rời khỏi cuộc đời này? Câu trả lời tùy thuộc vào đời sống của mỗi cá nhân tại thế gian. Nếu thất phận trong thiên mạng của mình, con người phải chịu luân chuyển trong luân hồi sanh tử. Nếu hoàn tất được sứ mạng làm người, lập được phẩm vị thiêng liêng, chứng đắc được đạo lý tự hữu, con người sẽ tiến hóa trở về hiệp nhất cùng Thượng Đế. ■
______________________________
[2] Kinh tắm thánh đạo Cao Đài
[3] Đức Vô Cực Từ Tôn; Vạn Quốc Tự, Tuất thời, 14-08 Quý Sửu (10-09-1973); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[4] Đức Cao Thượng Phẩm; đàn cơ dạy nhân viên Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài (thuộc Tòa Thánh Tây Ninh), đêm 16-09 Canh Dần; Luật Tam Thể.
[5] Đức Quan Âm Bồ Tát; Trúc Lâm Thiền Điện, Tuất thời, 20-10 Quý Sửu (14-11-1973); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[6] Đức Vạn Hạnh Thiền Sư; Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 02-06 Canh Tuất (04-07-1970); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[7] Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; Minh Lý Thánh Hội, 09-01 Mậu Thân (07-02-1968); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[8] Đạo Học Chỉ Nam, chương 3, tiết 2, mục 2.
[9] Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn; Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời, 03-12 Ất Tỵ (25-12-1965); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[10] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 15-04 Quý Sửu (17-05-1973); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[11] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 18-01 Tân Hợi (13-02-1971); Thánh Giáo Nguyên Bổn.
[12] Đức Quan Âm Bồ Tát; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 15-09 Quý Sửu (10-10-1973); Thánh Giáo Nguyên Bổn
[13] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo; Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-10 Bính Thìn (04-12-1976); Thánh Giáo Nguyên Bổn.ĐINH VỊ CON NGƯỜI ĐẠI ĐẠO
-__________________________________________
IV. CON NGƯỜI ĐẠI ĐẠO
“ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ KIM VIẾT CAO ĐÀI GIÁO NAM PHƯƠNG, Thầy các con. Thầy mừng các con. Hôm nay các con hội hiệp cùng nhau thiết lễ Khai Minh Đại Đạo, Thầy cùng chư Phật Tiên giáng trần ban hồng ân cho các con.
THI
Chan rưới hồng ân trẻ gội nhuần,
Tu thân hành đạo độ sanh dân;
Cho nên chút phận nơi trần thế,
Trở lại Thiên Cung hợp điểm thần.
Thầy ban ơn, miễn lễ các con đồng an tọa nghe Thầy dạy :
Hỡi các con !
THI BÀI :
Thầy mừng thấy các con hội hiệp,
Cùng vui ngày giao tiếp Đạo khai;
Nam phương mở rộng Cao Đài,
Trường thi Đại Đạo hoằng khai hội nầy.
Cơ phục thỉ vần xoay diễn biến,
Luật tuần huờn luân chuyển không ngừng;
Dặn con từ lúc đầu xuân,
Hè sang, thu mãn, đông quân lại về.
Trải một cuộc giác mê nhân sự,
Đường trăm năm sanh tử luân hồi;
Tiến trình Thầy dặn khúc nôi,
Cao Đài Giáo Lý con ôi học hành. [ . . .]
Kính thưa quí vị,
“Nam phương mở rộng Cao Đài,
Trường thi Đại Đạo hoằng khai hội nầy.”
Thầy mở ra trường thi Đại Đạo, đã chỉ rõ tiến trình hành đạo, lại dặn dò con cái phải cố gắng học hành giáo lý Cao Đài. Lòng Thầy từ bi vô lượng, mở trường thi mà vẫn thường xuyên cung cấp cho bi vở, nhắc nhở sĩ tử học thi. Người học thi là người đạo Cao Đài, thi đậu trường Đại Đạo mới được phát bằng chứng chỉ Con Người Đại Đạo.
Vậy hôm nay, nhân ngày kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo, để vâng lời thánh huấn của Thầy, chúng ta hãy cùng ôn học đề tài “Con người Đại Đạo”
II. NGƯỜI ĐẠO CAO ĐÀI
Trước khi vào chánh đề “Con người Đại Đạo”, chúng ta hãy định tâm, xem trong lãnh vực tôn giáo, hiện giờ chúng ta là ai ? Câu trả lời đơn giản sẽ là: “mình là người đạo Cao Đài”. Thật vậy, đơn giản như người tín hữu Công giáo, như người tín đồ Phật giáo. . .Nhưng nghĩ thật kỹ, có phải chỉ đơn giản như thế không?
Khi nhập môn vào Đạo là tự nguyện bước qua ngưỡng cửa Cao Đài. Sự tự nguyện đó có nhiều nguyên nhân thúc đẩy. Do cha mẹ, ông bà hay quyến thuộc là người đạo Cao Đài. Do đi tìm một chỗ dựa tâm linh. Do có đức tin nơi Thượng Đế và các Đấng Thiêng Liêng. Tất cả đều bình thường, và vẫn bình thường trong mọi sinh hoạt cúng kính, lễ lạc của người giữ đạo. Nhưng có phải tất cả mọi người đều ý thức, đều nhớ rằng mình đã trở thành một phần tử của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ? Mà Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một đại cuộc phi thường, kỳ diệu trên tất cả những gì phi thường kỳ diệu trên thế gian, từ thiên thượng đến thiên hạ, từ quá khứ đến vị lai.
Phần tử này không phải là một hạt cát trong bãi cát, một hạt lúa trong đám lúa, hay một con người bình thường sanh ra trong thời hiện đại. Nếu con người này đã tự đặt mình vào Tam kỳ Phổ Độ bằng giác ngộ thật sự thì sẽ trở thành một con tin của Thượng Đế Cao Đài, hay hơn nữa có thể trở thành “một thiêng liêng” tại thế.
Nên Đức Đông Phương Chưởng Quản đã xác nhận cái giá trị quí báu hi hữu của người đạo Cao Đài như sau:
“Nhớ rằngmỗi một đơn vị nhơn sanh đều có Thượng Đế và phép nhiệm mầu nơi nội tại. Rán công phu tu dưỡng để sớm thị hiện sự nhiệm mầu đó trước sự tự cứu và cứu tha nhân.
Thứ nữa, Bần Đạo gợi ý sau đây để chư hiền đệ muội hãnh diện và giựt mình. Vì sự quan trọng đó trong vạn hữu chúng sanh mà được sanh làm người là rất quí; làm người sớm giác ngộ là cái quí thứ hai,
Trong hàng Đạo hữu ý thức được Đạo là cơ cứu rỗi tự cứu cứu tha đó là cái quí thứ ba;
Trải qua mấy mươi năm tao loạn còn sống sót và giữ Đạo được đến ngày nay là cái quí thứ tư;
Học được Đạo pháp chơn tu để thoát thai thánh hóa là cái quí thứ năm;
Trong biển pháp mênh mông mà gặp Thầy gặp bạn dắt dìu, đó là cái quí thứ sáu ;
Trong khi khắp nơi điên đảo dao động chẳng dám nói lời Đạo công khai, những ngày sóc vọng không dám tới Thánh đường, trong bản tự khai lý lịch không dám ghi mình là tín hữu Cao Đài, trong lúc đó chư hiền đệ hiền muội đầy đủ các điều kiện để tu học hành Đạo là cái quí thứ bảy.
Giờ đây chỉ còn ý chí tâm tư can trường cố gắng chấp trì Đạo pháp đến ngày viên mãn là cái quí thứ tám mà cũng là cái quí chót vậy. “
Học lời dạy trên đây, hẵn nhiên ai cũng hãnh diện với những cái quí đã kể, nhưng cần nhấn mạnh những chữ “nhớ rằng” và “ý thức được”. Vì “nếu quên rằng” và “không ý thức được” thì còn có những gì để hãnh diện?
Trở lại ý thức “người con tin của Thượng Đế”, có phải chỉ các bậc hướng đạo hay chức sắc thiên phong mới được xem là người con tin của Thượng Đế? _ Nếu đã là người đạo Cao Đài đúng nghĩa, thì ai cũng trở thành con tin của Thượng Đế cả. Thật vậy, làm ”con tin” này rất đơn giản:
“Nười tín hữu Cao Đàiphải hiểu,
Bổn phận mình lo liệu trước tiên;
Gia trung thê tử chỉ truyền,
Rồi ra khắp cả xóm giềng giáo dân.”[2]
“Như vậy thì người vào đạo tu thân không có nghĩa là trốn lánh việc đời, mà phải hòa mình trong việc đời để trước hoàn thiện hóa bản thân mình, rồi hoàn thiện hóa những người khác”[3]
Nếu đã giác ngộ đúng mức, thì người đạo Cao Đài bình thường cũng trở nên người sứ mạng, như lời Đức mẹ dạy: “Các con tiếp tục siêng tu siêng học giúp đỡ người đời, làm sáng điểm đạo tự hữu của họ. Đó là sứ mạng Thiên ân chấp trì quyền pháp của con đó vậy.[4]
Ngược lại:“Nay gặp thời kỳ ân xá mở rộng pháp môn, Thiêng liêng chống con thuyền đưa người vượt qua bi ngạn, nếu ai không giác ngộ thì khó sang dời thánh đức và khó vào cõi an lạc.”[5]
Nói tóm lại, để làm người đạo Cao Đài đúng nghĩa, thật đơn giản mà cũng rất vinh diệu, hơn nữa mặc nhiên mang lấy sứ mạng rất đặc biệt trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này như thánh ngôn của Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo: “Người Đạo Cao Đài là gương mẫu, là chiếc đò, là nhịp cầu đưa khách từ bến mê sang bến giác, là điện đài thu phát động năng thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý, là tính chất của Tạo Hóa kết hợp với sự thương yêu cho toàn diện thế giới nhơn loài.”[6]
đài thu phát động năng thúc đẩy sự thống hiệp giáo lý, là tính chất của Tạo Hóa kết hợp với sự thương yêu cho toàn diện thế giới nhơn loài.”[7]
IV. CON NGƯỜI ĐẠI ĐẠO
Lần thứ hai, Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo nhắc đến khái niệm con người Đại Đạo vào năm 1980:
“Quá khứ, hiện tại, vị lai, dòng sông muôn ngõ rồi cũng quy về biển cả. Sứ mạng Thiên ân của con người Đại Đạo là biển cả là bản thể vô biên. Ai chưa ở vào chủ vị đó là chưa đạt đến sứ mạng cứu độ kỳ ba trong quyền pháp Đạo”.[9]
Đọc kỹ thánh giáo trong hai lần này, chúng ta thấy Ơn Trên bắt đầu nâng ý thức về người đạo Cao Đài lên nhận thức về con người Đại Đạo.
Lần đầu, không phải ngẫu nhiên Đức Hiệp Thiên Đại Đế nói đến con người Đại Đạo khi dạy về cương lĩnh “Minh đức” trong sách Đại Học của Nho tông. Theo Nho gia, Minh đức là cái đức sáng nơi nội tâm con người. Cái đức sáng ấy không đơn thuần là trí thông minh, mà là lương tâm, lương tri hay hơn nữa là thiên tâm. Nên trước khi dạy về Minh đức, Ngài mở ra một tiền đề như sau:
“Trước khi nhìn rõ hơn về Minh Đức, cũng nên có một cái nhìn sơ qua về Đại Đạo, hơn nữa con người Đại Đạo. Đã biết Đạo là cái gì bất khả ngôn khả thuyết, nhưng nó hiện hữu mọi nơi, mọi thời mà mang cho quần sinh một sức sống miên trường không hư mất từ đời này sang đời nọ, từ nơi này sang nơi khác, đểthị hiện cái đức sinh tồn của Tạo Hóa bằng tình thương Thượng Đế, bằng sự hỗ tương lẫn nhau trong cơ sinh tồn dưỡng dục và tiến hóa.”
Trong cái nhìn về Đại Đạo trên đây của Đức Quan Thánh Đế Quân, chúng ta thấy đã hàm ý về đức tính con người Đại Đạo là “thị hiện cái đức sinh tồn của Tạo Hóa bằng tình thương Thượng Đế, bằng sự hỗ tương lẫn nhau trong cơ sinh tồn dưỡng dục và tiến hóa.”. Đây cũnh chính là ý nghĩa của nguyên văn câu “Đại học chi đạo tại minh minh đức” trong sách Đại học. “Minh đức” là “đức sinh tồn” tiềm ẩn nơi mỗi con người; và “minh Minh đức” là thể hiện, phát động cái đức ấy thành tình thương, thành hành động tương thân tương ái giữa mọi người để cùng tiến hóa.
Lần thứ hai, Đức Giáo Tông cho ta khái niệm sứ mạng của con người Đại Đạo là “sứ mạng thiên ân”. “ Thiên ân” có nghĩa thọ nhận ân Trời, nên sứ mạng thiên ân còn được gọi là “sứ mạng thế thiên hành hóa”, tức thay Trời hành đạo, giáo hóa nhân sanh. Nhưng muốn trở nên bậc thiên ân, phải đứng vào “chủ vị” của con người Đại Đạo. Chủ vị đó là “biển cả”, là “bản thể vô biên”, tức là đứng trên vị trí của tâm vô phân biệt, tâm đại đồng, mang bản chất của bản thể đại đồng dân tộc , hơn nữa, bản thể đại đồng nhân loại. Đó chỉ mới là cái TÂM, còn cái ĐỨC của con người Đại Đạo đứng vào chủ vị ấy chính là “sứ mạng cứu độ kỳ ba”. Và hơn nữa, “sứ mạng cứu độ kỳ ba trong Quyền pháp Đạo”. Vì phải ở trong Quyền pháp Đạo mới duy trì được thiên ân.

Trước hết, Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri làm chủ mọi tri thức (hạ trí) và tình thức. Kế đến, Nguyên nhân ấy thọ bẩm tinh thần đắc nhất của tâm linh (thuộc cõi Bồ đề) để sử dụng chơn tri của thượng trí mà thi hành sứ mạng.
Như thế bản chất của người thiên ân sứ mạng là bản chất Đại Đạo, là tình bác ái bao dung tất cả khiến người sứ mạng hành động vô tư, hiệp nhất được mọi đối tượng trên từng nấc thang tiến lên lý tưởng chân thiện mỹ của loài người. Chỉ có bản chất Đại Đạo mới hóa giải được mọi đổ vỡ phân ly hận thù trong lòng nhân thế gây ra biết bao sóng gió phủ phàng cho cuộc đời. Nên “hoài bão sau cùng của sự rạn nứt tinh thần nhân loại cũng nhắm vào chất nhựa tình thương phát nguyên từ nguồn sống đạo vô biên”[10]
a)_ Sứ mạng con người Đại Đạo là đem lại nguồn an lạc vĩnh cửu cho nhân sanh. Muốn thế, chính người sứ mạng trước nhất phải tìm thấy nguồn an lạc vô tư vô chấp trong nội tâm, như lời dạy của Đức Mẹ:
“Kỳ hạ nguơn cộng nghiệp, các con phải thấy ân phước mà đừng để kẻ khác nhắc nhở. Tình Vô Cực rất bao la, nhưng Thiên luật công bình không mảy lọt. Mẹ mong muốn các con nam nữ đã được nhận lấy sứ mạng Thiên ân quyền pháp đem lại nguồn an lạc vĩnh cửu cho nhân sanh. Các con hãy khai nguồn an lạc riêng con cho thông suốt, đừng để vướng bận hoàn cảnh đa diện bên ngoài mới chóng thành công.[11] (Đức Vô Cực Từ Tôn)
Khi đạt được niềm lạc đạo ấy rồi thì người con tin của Thượng Đế sẽ tự ý thức trách nhiệm trước nhân sanh. Vì “đã tin thì chính mình là Đạo, phải thay Trời mà vận hành tự cường bất tức.”[12]Đó là điều kiện mà Đức Mẹ gọi là “phải khải nhập được Đạo ở chính mình rồi mới được sứ mạng Thiên ân”[13]
b)_ Sứ mạng con người Đại Đạo là “sứ mạng cứu độ kỳ ba trong quyền pháp Đạo”
- Sứ mạng kỳ ba: nói một cách khái quát, sứ mạng kỳ ba là sứ mạng Qui Nguyên. Tam giáo-Vạn giáo qui nguyên về Đại Đạo. Con người qui nguyên về Nhân bản. Đạo pháp qui Tâm. Nhân lọai qui nguyên về Bản thể đại đồng. Tất cả đều hướng về cứu cánh Thượng Đế.
- Quyền pháp Đạo:là Thiên cơ, Thiên lưật, Thiên điều để gìn giữ Chánh pháp Đại Đạo mà khi Khai Đạo, Đức Chí Tôn ban xuống trong Pháp Chánh Truyền và Nhân sanh dâng lên trong Tân Luật. Quyền pháp là khả năng chuyển đưa thiên lý và tình thương đến mọi đối tượng của sứ mạng. Tóm lại Quyền pháp đạo là đường lối thực hiện Cơ cứu độ đúng theo Thánh ý Thiên cơ trong Tam Kỳ Phổ Độ.
c)_Sứ mạng con người Đại Đạo là sứ mạng Thiên nhân hiệp nhất.
Như Ơn Trên đã dạy trên đây, bản thân người sứ mạng phải đắc nhất, đắc Đạo rồi mới nhận được quyền pháp.
Có quyền pháp rồi mới vận hành thiên lý vào vạn giáo, vạn pháp, vạn lọai để đồng hội nhập vào Cơ cứu độ kỳ ba. Vì như thánh huấn của Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy: “Nhớ rằng mỗi một đơn vị nhơn sanh đều có Thượng Đế và phép nhiệm mầu nơi nội tại. Rán công phu tu dưỡng để sớm thị hiện sự nhiệm mầu đó trước sự tự cứu và cứu tha nhân.”
Tóm lại, công năng của con người Đại Đạo là cầu nối giữa Trời (Thiên thượng) và Người (Thiên hạ), làm cho Thiên hạ hiệp nhất được với Thiên thượng, vạn linh hiệp với Chí linh mới đủ sức hoàn thành Cơ cứu độ.
Xin đơn cử Ngài Cố Tổng Lý Minh Đạo Huệ Lương tiên vị Quảng Đức Chơn Tiên bày tỏ sự đắc nhất đắc đạo của Ngài qua các đọan thi bài sau:
“Cao Đài là cái đài cao,
Vượt lên tất cả đón rào ngăn che.
Thấy tỏ rõ mà nghe thấu suốt,
Có gì đâu hạn cuộc được ta;
Ngoài trời THƯỢNG ĐẾ bao la,
Trong lòng vạn tượng cũng là CHÍ TÔN.
......................................................
Quyền pháp vốn trung tim vũ trụ,
Vạn sanh đều có đủ pháp quyền;
Tình thương sự sống vô biên,
Cùng chung THƯỢNG ĐẾ không riêng được nào
Biết sống đạo gìn câu Trung Đạo,
Ở hay về hoài bão như xưa;
Ai ơi ! sứ mạng Đại Thừa,
Trọn đời gồng gánh chưa vừa chưa ưng.”[14]
Giữa thời mạt pháp, Đức Chí Tôn Khai Đạo không phải chỉ để mở ra một tôn giáo mới, thật ra để soi sáng lại nguồn gốc của Chân Thiện Mỹ, nguồn sinh lực hóa sanh dưỡng dục chúng sanh. Nên Khai Đạo tức là Khai Minh Đại Đạo. Đối với vạn giáo, khai minh Đại Đạo có ý nghĩa phục hưng chân truyền của các đấng Giáo tổ để hướng dẫn nhân sanh tín đồ sống lại đời sống tâm linh hướng thượng.
Đối với con người Đại Đạo, khai minh Đại Đạo là làm sáng tỏ cái Đạo tự hữu trong nội tâm để có khả năng đánh thức điểm Đạo huyền nhiệm của mọi người. Nhờ đó, từ một con người Đại Đạo sẽ có thêm trăm ngàn người Đại Đạo, tất cả họp thành ánh đuốc tâm linh xóa tan màn đêm u tối của dục vọng, chia rẻ, hận thù . . .
Với những con người Đại Đạo trong các tôn giáo, các tôn giáo sẽ họp thành “thực thể Đạo cứu thế” có năng lực cứu độ siêu mầu vượt trên mọi dị biệt sắc tướng hay giáo điều kinh điển.
Trong đại lễ Khai Minh Đại Đạo, sau khi Đức Chí Tôn tấn phong các phẩm chức sắc, những người dự lễ đã trải qua một cuộc thử thách đức tin trầm trọng. Tiếp theo là một thử khách nữa về tinh thần hy sinh phụng sự Đạo, cứu độ nhân sanh. Ngay trong buổi lễ Khai Đạo, Đức Chí Tôn giáng lâm hỏi những ai sẽ tự nguyện đi truyền Đạo ra Trung Bắc. Trong hoàn cảnh thời đó, nước nhà chưa độc lập, nhân dân còn nghèo đói, giao thông cách trở, nhất là hai miền Trung, Bắc Kỳ. Quả là Thầy vừa muốn thử thách đức tin và chí hy sinh vừa muốn dạy cho con cái Ngài bài học của Con người Đại Đạo. Nghĩa là người nào đã được lập vị vào hàng môn đồ hướng đạo của Thầy, đương nhiên đã thọ Thiên ân và mặc nhiên phải lãnh lấy sứ mạng Đại Đạo. Đó là “Qui ước” của con người Đại Đạo.
Thế nên Khai Minh Đại Đạo không chỉ là Khai Đạo bằng một cuộc lễ, tại một địa điểm, trong một thời điểm nhất định. Cái dấu ấn của Rằm tháng 10 năm Bính Dần đã mở ra đại cuộc khai minh Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ cho mỗi con người, mỗi tôn giáo, mỗi dân tộc và toàn cả thế giới nhân lọai vô giới hạn không gian thời gian. Cho nên con người Đại Đạo còn được gọi là con người muôn thuở muôn phương.
“Quá khứ, hiện tại, vị lai, dòng sông muôn ngõ rồi cũng quy về biển cả. Sứ mạng Thiên ân của con người Đại Đạo là biển cả là bản thể vô biên. Ai chưa ở vào chủ vị đó là chưa đạt đến sứ mạng cứu độ kỳ ba trong quyền pháp Đạo.”
Hơn nữa, Đức Chí Tôn cũng từng ưu ái nhắc nhở concái của Ngài:
“Nơi bất biến hằng sanh tâm Đạo,
Lòng đảo điên khó bảo kim thân;
Ngoài ra bổn phận vi nhân,
Trong còn sứ mạng Thiên ân Tam Kỳ. . .”[15]
__________________________

CHƯƠNG THƯ NĂM
III. VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG SỨ MẠNG PHỤC HỒI NHÂN BẢN
@@@
Theo Tự Điển Tiếng Việt (1991) của Viện Ngôn Ngữ Hà Nội, Ý thức hệ được định nghĩa như sau: “Ý thức hệ là hệ thống tư tưởng và quan điểm thường phản ảnh quyền lợi cơ bản khác nhau của các giai cấp, các từng lớp xã hội.” Theo “The American Heritage Illustrated Encyclopedic Dictionary”: “Ý thức hệ là phần trọng tâm hay chính yếu của tư tưởng, phản ảnh các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân, tập thể hay một nền văn hóa.” “Ý thức hệ là một hệ thống học thuyết hay tín ngưỡng làm nền tảng cho một hệ thống chính trị, kinh tế hay các hệ thống khác.”[16] (Ideology: The body of ideas reflecting the social needs and aspirations of an individual, group, class, or culture. A set of doctrines or beliefs that form the basis of a political, economic, or other system.)
Tổng hợp những định nghĩa “ý thức hệ” nêu trên, có thể đề ra định nghĩa “Ý thức hệ Cao Đài” như sau:
Ý thức hệ Cao Đài là trọng tâm tư tưởng của hệ thống giáo thuyết Cao Đài. Đó là một hệ tư tưởng và quan điểm, đúc kết từ đức tin, lý tưởng và ý thức sứ mạng Cao Đài, được đặt trên nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan, thể hiện mục đích, tôn chỉ, và lập trường của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, làm nguyên tắc chỉ đạo cho sự sống đạo, hành đạo và thi hành sứ mạng của người tín đồ Đại Đạo trong công cuộc cứu thế kỳ ba.
Ý thức hệ Cao Đài cũng chính là ý thức hệ Đại Đạo. Thật vậy, Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo đã dạy:
“Ý thức hệ chơn chính Đại Đạo đã quá sáng tỏ, làm chói mắt cả thế nhân; rồi nhân thế lại tưởng tượng rằng chân lý của Đại Đạo chỉ là ánh sáng trong tầm mắt hạn hẹp, hay tưởng tượng quẩn quanh của riêng mình mới thật đáng thương. Cao Đài không là Cao Đài, đó chính thị là Cao Đài.”[17]
Quả thật tư tưởng Cao Đài, giáo lý Đại Đạo đã lập thành một Ý thức hệ hết sức sáng tỏ. Ý thức hệ nầy đặt trên nền tảng một đức tin đạt đạo, một lý tưởng viên dung phổ quát, một sứ mạng đại thừa.
1. Đức tin đạt đạo có nghĩa là một đức tin đặt trên những nguyên lý bất diệt của vũ trụ, phù hợp với nhữhiện hữung quy luật sinh hóa và tiến hóa của vạn vật, phù hợp với nhân vị nhân năng và mối tương quan giữa Người và vũ trụ, giữa Người và vạn vật, giữa Người và Trời. Đó là một đức tin hết sức nhân bản và khai phóng loài người.
2. Lý tưởng viên dung phổ quát là một lý tưởng không mông lung ảo vọng, đặt quyền năng con người vào tầm kích vũ trụ nhưng không rời bỏ mục tiêu hoàn thiện hóa thế gian. Lý tưởng ấy muốn đổi thay cuộc diện nhân loại, nhưng trước tiên đòi hỏi ý thức sứ mạng làm người và phát huy tiềm năng nhân bản, đạo đức dân tộc. Nhất là ý thức sứ mạng dân tộc được chọn.
Đó là một lý tưởng phổ quát vì là lý tưởng Đại Đạo, không khép kín trong một tôn giáo hay các tôn giáo, trong dân tộc nầy hay dân tộc khác, ngược lại, nhắm khai phóng trí năng và tâm linh thuộc về bản thể đại đồng đạt đến minh triết, chân tri để cuối cùng phối kết với Đạo với Đại Ngã.
3. Với đức tin và lý tưởng nêu trên, hàng con tin của Thượng Đế sẽ thọ nhận sứ mạng đại thừa. Đó là sứ mạng của con người đã “khải nhập được Đạo”bằng chánh pháp thiên đạo, đồng thời tự nguyện đương kham cơ cứu độ Kỳ Ba trong quyền pháp được ban trao.
Nói một cách khái quát hơn nữa, ý thức hệ Cao Đài đã chỉ ra hai nguyên tắc trọng yếu cho cơ đạo và cho người hành đạo là:
* QUY NHẤT
* VI NHÂN
Quy nhất:thực hiện công cuộc hiệp nhất và quy nguyên tất cả những gì đã xa rời bản chất thuần chơn hay công năng tiến hóa của một chủ thể hay của những cộng đồng nhân sanh. Tức là tái tạo-bảo tồn sau thời kỳ phân hóa-đào thải.
Đức Chí Tôn có dạy:
“Càn Khôn trẻ muốn chung cư thất,
Thiên địa con toan động tác thành;
Ngưỡng cửa viên dung là chữ nhất,
Không tìm sao thấy ở hình danh?”[18]
Vi nhân:Công cuộc cứu độ Kỳ Ba nhất thiết khắc trị căn bệnh vong bản, vong thân, đánh mất lòng nhân ái, bỏ quên cương vị làm người chân chính. Tóm lại là phục hồi nhân bản và phụng sự nhân sanh.
“Vi nhân tử tài thành nhân vị,
Phật thánh tiên nhứt lý do hà;
Vô tư vô dục vô tà,
Từ bi bác ái trung hòa lợi sanh.”[19]
Với ý thức hệ Cao Đài, tức ý thức hệ Đại Đạo, chúng ta càng khẳng định ý nghĩa mục đích của công cuộc khai minh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ:
“Người vẫn tưởng Cao Đài - tôn giáo,
____________________________________
II.VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG
SỨ MẠNG PHỤC HỒI NHÂN BẢN
nay, người đời thường cho rằng tôn giáo là những hệ thống tín ngưỡng hay giáo thuyết chủ yếu hướng dẫn tín hữu sùng bái thần linh, gây ra mặc cảm tội lỗi, hoặc kỳ vọng hoang đường.
Điều đó chỉ đúng với lối tu mê tín, không tự tin vào khả năng tự hữu để hoàn thiện bản thân và tìm thấy hạnh phúc đời mình.
Thật ra, các bậc Giáo tổ là những vị đã trải nghiệm chân lý về giá trị thực của con người. Đức tin của các đấng ấy là sự khám phá những nguyên lý tương quan, tương đồng giữa con người và thiên nhiên trời đất. Và hơn nữa, trực nhận chân lý phổ quát nhất không ở đâu xa ngoài nhân thân là tiểu vũ trụ có giá trị “tối linh”giữa muôn loài vạn vật, nhờ đó thực hiện con đường giải thoát tâm linh.
Đạo Đức Kinh, Ch. 33, có viết:
“Tri nhân giả trí, tự tri giả minh;
Thắng nhân hữu lực,
Tự thắng giả cường.
Tri túc giả phú; cường hành giả hữu chí.
Bất thất kỳ sở giả cửu;
Tử nhi bất vong giả thọ.”
Nghĩa:
Biết người là khôn, biết mình là sáng.
Thắng người là kẻ có sức,
tự thắng là kẻ mạnh.
Biết đủ là giàu, cố gắng là người có chí.
Không đánh mất điểm tựa, sẽ vững bền.
Chết mà không hết, thế là thọ.
Xem ra, lý tưởng Nhân bản đã được Đức Lão Tử là một hóa thân của Đức Thái Thượng Lão Quân nêu lên cách đây hơn 2.500 năm.
Giáo lý các tôn giáo ra đời trong thời đó hoặc sau này đều có phần nhập thế và xuất thế. Người chưa hiểu đạo, trong phần nhập thế thì đi tìm những lý thuyết viễn vong, bỏ hình theo bóng; phần xuất thế lại mê tín dị đoan, không tìm thấy con đường tiến hóa tâm linh đích thực. Nào hay đâu chiếc chìa khóa giải quyết cuộc đời và mở cửa đạo đã có sẵn trong chính con người mình. Đó là cái “kỳ sở” mà Đức Lão Tử viết trong câu “bất thất kỳ sở giả cửu”, cái điểm tựa bền chặt mãi, tức Nhân bản, chỉ có con người sáng suốt, giác ngộ, mới biết phát huy đầy đủ nhân tính từ đó để sống đúng giá trị con người đích thật, con người đúng nghĩa. Ngược lại là tự đánh mất “gốc người” của mình.
Vậy làm sao phục hồi Nhân bản?
Là những người có tín ngưỡng, chúng ta hãy thử tìm chiếc chìa khóa Nhân bản trong các tôn giáo.
Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh hết sức rực rỡ. Đáng lẽ từ khi loài người tiến hóa thành homosapiens đến bây giờ, toàn thế giới phải đang được tận hưởng trong hòa bình những thành quả của nền văn minh có lịch sử hằng triệu năm này.
Nhưng nghịch lý thay, con người vừa đang sống với những tiện nghi hiện đại, lại vừa dùng những phương tiện hiện đại khác để tàn sát lẫn nhau! Càng khốc liệt hơn nữa, có những cuộc tàn sát đến mức diệt chủng!
Hình như các giáo chủ đã tiên đoán những ác nghiệp do tâm địa của con người, nên từ Thượng cổ, tôn giáo đã ra đời. Đến Trung cổ nhiều tôn giáo với những giáo thuyết cao siêu hay thực tiễn, tiếp tục giáo hóa nhân sanh làm người chân chính. Nhưng cái gì vào tay con người một thời gian rồi cũng bị biến đổi, nhiều thành phần tín đồ dần dần đánh mất chơn truyền. Giữa các giáo phái đã xảy ra kỳ thị đến mức hận thù và chiến tranh!
Thế nên, người ta lại cảm thấy lo ngại vai trò của tôn giáo; người cực đoan thì bài xích thẳng thừng, kẻ ôn hòa chỉ muốn làm người “ngọai đạo”. Không thỏa mãn với những tôn giáo truyền thống, xã hội nảy sinh ngày càng nhiều giáo phái. Xét ra mỗi giáo phái là một biểu hiện phức tạp của tâm thức con người: cuồng tín, thác loạn, cực đoan, bất mãn, tuyệt vọng....
Đứng trước thảm trạng trên, nhiều chủ thuyết ra đời, muốn nêu lên một lý tưởng chung cho nhân thế. Đối với tôn giáo, có những đề xuất xây dựng một tôn giáo duy nhất đáp ứng khát vọng mọi dân tộc về đời sống xã hội an lạc và đời sống tâm linh cao đẹp.
Đại sư Vivekananda[20], nhà hiền triết Ấn Độ nổi tiếng với triết lý Venanda, chủ trương thực hiện một tôn giáo phổ quát cho toàn nhân loại: “Sống đạo là trải nghiệm Chân lý siêu việt chung cho toàn nhân loại”[21]
Gần đây Đức Đạt Lai Lạt Ma lại có một phát biểu “phá chấp”hơn nữa:
“Tôi tin tưởng rằng, ở mọi tầng lớp xã hội, trong mọi gia đình, quốc gia hay cộng đồng quốc tế, chiếc chìa khóa mở ra một thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn là tấm lòng trắc ẩn sâu xa của con người. Không nhất thiết phải thuộc về tín ngưỡng hay niềm tin vào một ý thức hệ để có được tấm lòng ấy. Điều quan trọng là phát huy tính nhân bản càng sâu rộng càng tốt.”[22]
Thật ra triết lý của các nhà hiền triết trên, xét cho cùng là sự đề xuất một cuộc vận động phục hưng những giá trị nhân bản chơn truyền của các tôn giáo lớn trước đây.
Bước vào Kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ của Đại Đạo, Đức Thượng Đế khai sáng Đạo Cao Đài chính là nhắm vào cứu cánh Nhân Bản đó, như thánh ngôn của Đức Thái Thượng Đạo Tổ mà toàn đạo đang cử hành đại lễ Kỷ niệm Khánh đản của Ngài vào ngày hôm nay:
“Chư môn sanh hiện tại là hình bóng của người đã qua. Tất cả đều Thiên ân sứ mạng, tùy tài đức tùy khả năng mà sử dụng. Không vì có muôn xe sản nghiệp, hoặc lão thông kinh điển ngàn pho mới thực hiện được đạo lý để độ đời, cũng không bởi chất phát thật thà, ít oi mà mặc cảm là không hành được cái đạo. Đã học đạo, hành đạo, tất biết đạo hằng có trong vạn vật. Vạn vật sinh tồn trong lý đạo. Những phương pháp, phương châm, bí quyết để con người được biết rõ chính mình và biết sống trong lý đạo để bảo trì nhân bản trên xã hội nhân loại này đều tóm vào một ý nghĩa của mùa xuân, bởi xuân là mùa lập lại qua cuộc sanh trưởng thâu tàng, biết hòa dịu để lưu hành trưởng dưỡng.”[23]
A. GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CỦA CÁC ĐẠO GIÁO
A.1.-ĐẠO LÃO
Trước hết, xin giới thiệu tính nhân văn của Đạo Lão qua Đạo Đức Kinh (ĐĐK) của Đức Lão Tử.
Đạo Đức Kinh là một học thuyết triết học mà các học giả kim cổ Đông Tây đều rất bái phục về vũ trụ luận và đạo đức luận. Đặc điểm của học thuyết là không đề cập các giáo điều hay tín ngưỡng, mà chủ yếu dạy cho con người lối sống tự chủ phù hợp với qui luật vũ trụ. Tính tích cực của Đạo Đức Kinh là ứng dụng các nguyên lý vận hành của Đạo (vũ trụ) để phát huy thành Đức, tức là thực hành các nguyên tắc trị thân (cá nhân con người) và trị thế (xã hội nhân lọai).
ĐĐK khẳng định Con người là một chủ thể lớn trong trời đất, trong đó mối tương quan giữa người với trời đất là cái Đạo Tự Nhiên: “Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.”(ĐĐK.Ch.25) (Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên. - Nguyễn Hiến Lê [NHL] dịch)
Lão Tử chú trọng cách xử thế vô tư, hòa hợp, bao dung với mọi người: “Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đức thiện. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi, đức tín.”(ĐĐK.Ch.49) (Thánh nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hóa ra tốt; tin người đáng tin mà tin cả những người không đáng tin, nhờ vậy mà mọi người đều hóa ra đáng tin._NHL.dịch)
A.2.- ĐẠO PHẬT
Đạo Phật thường nhắc đến tuyên ngôn bất hủ của Đức Thế Tôn Thích Ca: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Nếu hiểu đó là câu nói tự tôn của Ngài thì thật là sai lầm. Cái “ngã”ở đây chính là “con người lớn”mà Đức Lão Tử đã đề cập. Đó là con người đang mang cái Đạo nội tại, là bất cứ ai làm người đều là một chủ thể đáng được đề cao, suy tôn; là đối tượng cần phải chú trọng phát huy bản thể tức là khả năng tự tiến hóa và tác động vào cuộc tiến hóa của mọi người. Nói cách khác, “cái ngã độc tôn” là đầu mối duy nhất để phăng ra chân lý tự do tự chủ của con người trong trời đất.
Chỉ với một câu nói đó cũng đủ xác định giá trị nhân văn của Phật đạo.
A.3.- ĐẠO KHỔNG
Tính nhân văn rõ nét hơn cả đạo Lão và đạo Phật, đạo Khổng khiến chúng ta có cảm nhận rất gần gũi với con người trong đời sống thực tiễn. Rốt ráo nhất là lý luận về đức Nhân trong sách Luận Ngữ.
Luận Ngữ IV:02: “Nhân giả an nhân, trí giả lợi nhân”(Người có đức nhân vui lòng làm điều nhân, người thông minh sáng suốt biết rằng đức nhân có lợi cho mình và cho người nên làm điều nhân.- NHL dịch)
Luận Ngữ X:08 “Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân.”(Người sĩ có chí và người có đức nhân không cầu sống mà làm hại điều nhân, mà có khi hi sinh tính mạng để làm điều nhân.- NHL dịch)
Nghiên cứu học thuyết nhân văn Nho giáo cổ điển, giáo sư Đỗ Duy Minh đại học Haward viết:
“... Khổng Tử tìm thấy Đạo trong các tiềm năng nội tại của con người được định nghĩa từ góc độ vũ trụ nhân sinh luận....Sự tập trung vào tính chất quan trong hàng đầu và tính đa diện phong phú của khái niệm NHÂN 仁trong Luận Ngữ là một biến cố vĩ đại trong vũ trụ biểu tượng của tư duy Trung Quốc thời cổ [...].Niềm tin của Khổng Tử vào khả năng hoàn thiện (perfectibility) trong bản tính nhân lọai thông qua sự tự nổ lực, như một câu trả lời cho những khuynh hướng phi nhân trong thời đại lịch sử đang bủa vây ông. Niềm tin đó hướng dẫn toàn bộ năng lực của ông vào việc chuyển hóa thế giới nhân lọai từ bên trong. Thái độ tập trung này đạt căn bản trên niềm xác tín rằng giá trị tối hậu của tồn tại nhân sinh nằm kề sát bên cạnh con người và ước muốn đạt đến nhân tính sẽ dẫn đến sức mạnh cần thiết cho việc hiện thực hóa.”[24]
A.4-ĐẠO KI-TÔ
Mặc dầu khác hơn Nho Thích Lão (mà giáo thuyết được đánh giá là những học thuyết triết học hơn là tôn giáo độc thần hay đa thần), Ki-Tô giáo vẫn có tính nhân văn rất sâu sắc: đề cao con người vì con người và Chúa là một, con người là phản ảnh của Thiên Chúa.
Thánh Paul đã viết: “Anh em chẳng biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Linh, đấng ngự trong anh em sao?”[25] Thánh Augustine viết trong tập Tự thú: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên đã không gặp Chúa của lòng con.”[26]
B. SỨ MẠNG PHỤC HỒI NHÂN BẢN CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (ĐĐTKPĐ)
Sau các tôn giáo lớn kể trên, vào đầu thế kỷ XX, giữa những biến động trên thế giới, trải qua thế giới chiến tranh thứ nhất, và thế giới chiến tranh thứ hai và bao nhiêu biểu hiện sa sút đạo đức dẫn đến sự phá sản mọi giá trị nhân bản trong xã hội loài người, ĐĐTKPĐ được khai minh. Dưới danh hệu phổ cập là “Đạo Cao Đài”, thế nhân lại đơn giản cho rằng ĐĐTKPĐ là một tôn giáo “bản địa”đã xuất hiện như nhiều tôn giáo khác trong lịch sử. Có khác chăng, chỉ thêm vào tính “trào lưu xã hội”(sic), tính “cởi mở”, tính dân tộc, tính tổng hợp...! Để đính chính nhận định hời hợt đó, Cao Đài đã có thông điệp:
Người những tưởng Cao Đài tôn giáo,
Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương.[27]
Tuy nhiên, sứ mạng hoằng dương Đại Đạo vô cùng nhiêu khê giữa thời đại hỗn tạp này. Và trước hết, người Cao Đài phải thông suốt ý nghĩa hai chữ Đại Đạo.
Đại Đạo không có nghĩa là tôn giáo lớn, mà vì muốn chỉ cái Đạo bao dung tất cả,vượt trên mọi đối đải nhị nguyên, là đường lối trở về nhất nguyên Bản thể nên gọi là Đại Đạo.
Vậy, Đại Đạo hoằng dương trong đối tượng nào và ở đâu để vượt lên những hạn chế của tôn giáo, để có giá trị phổ quát trên toàn xã hội nhân lọai đang mang vô vàn bản sắc?
- Giáo lý Đại Đạo đã trả lời: Không có đối tượng nào và ở đâu khác hơn là chính trong lòng người: “Tấm lòng của nhân loại mới chính là nơi chân lý cứu rỗi phát sinh tạo thế an bình cho nhân loại.”[28]
Đó cũng là chân lý mà Lão Tử Đạo Đức Kinh đã viết: “Cố Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên”[ĐĐK.Ch.25] (Cho nên Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một.)
Vậy, muốn giải quyết cuộc diện nhân lọai ngày nay phải thực hiện sứ mạng Đại Đạo. Và sứ mạng Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ chính là sứ mạng làm Người đúng nghĩa “Người lớn” (nhân [diệc] đại).
Thánh giáo Cao Đài viết: “Con người hiện giờ đã mất quá nhiều điểm tựa của tâm linh. Niềm tin của con người đang sụp đổ, các căn bản nhân tính của con người đã xa lìa, chính vì vậy, thế nhân hòa phải tạo lập lại các giá trị nhân bản, đưa con người trở về với đời sống hợp nhân tính đơn thuần; hiểu biết hành động phục vụ, phụng sự mà không nằm trong nhân bản sẽ đưa đến những hậu quả khốc liệt nhất cho xã hội. Nhân bản có sáng chói, con người mới cảm thấy mình là con người. Dầu ở bất cứ lãnh vực hay hoàn cảnh quốc thổ nào, đời sống tâm linh càng phải tựa vào nhân bản. Có như vậy, đạo lý, tôn giáo mới không rơi vào chỗ mông lung huyễn ngã.”[29]
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do đích thân đức Thương Đế Chí Tôn khai sáng, nhưng giáo lý Đại Đạo lại đề cao giá trị nhân bản của con người đích thật, dạy con người đi tìm Thượng Đế đích thực trong tâm khảm bằng chính Nhân bản của mình. Thánh giáo viết:
“Nầy chư hiền! Thượng Đế không ngự trên vật thể vô tri, mà trái lại Thượng Đế ngự trong tâm tháp ngà của tâm hồn nhân loại. Hình thể Đạo chỉ mượn đó để thể hiện thánh Thể Chí Tôn tại thế.
“Thượng Đế không là một hình bóng của thần tượng, nhơn tượng hay vật tượng. Chính biểu tượng Thiên Nhãn cũng chỉ là tạm mượn để gởi gấm chân lý trong một cụ thể chủ quan mà thôi. Chính vì vậy, kiến tạo hình thể Đạo có được giá trị cùng chăng là phải có nhân tâm làm chứng thị.
“Giá trị của nhân sanh giác ngộ sẽ định vị cho hình thể đạo của từng địa phương.”[30]
Và Đức Thái Thượng Đạo Tổ, nhân dịp dạy Đạo vào đầu mùa Xuân năm Ất Mão đã dạy rất cặn kẻ sứ mạng phục hồi Nhân bản của các Tôn giáo nói riêng, của toàn nhân loại nói chung:
“Nếu toàn thể những người được đứng trong khuôn viên tôn giáo đạo đức, đều đồng lòng hòa hợp lại trong tinh thần vô cố, vô chấp, vô ngã, vô công, vô danh thì có lo chi không giải được sự cộng nghiệp của chúng sanh, đem lại thanh bình an lạc chung cho thế giới nhân loại.”[31]
KẾT LUẬN
Vai trò của tôn giáo muốn xứng đáng là một thực thể cứu độ nhân lọai, phải thực hiện cho kỳ được cuộc phục hưng sứ mạng vi nhân của con người bằng cách phục hồi những giá trị Nhân bản để chính con người tự hoàn thiện và hoàn thiện xã hội. Những người tự chọn một con đường để quyết tâm hoàn thành sứ mạng ấy, dù theo hay không theo tôn giáo nào, cũng là những người đồng hành trên đường Đại Đạo.
Nên thánh ngôn Đức Diêu Trì Kim Mẫu từng nhắn nhủ con cái của Ngài trên thế giới ngày nay rằng:
“Kìa con! Đời đang loạn lạc, người người mong vọng hòa bình, tôn giáo đang chia rẽ, tín đồ đạo hữu mong vọng điều hiệp nhứt, mà hòa bình do nơi đâu hỡi con? Hòa bình hay hiệp nhứt, Đức Thượng Đế đã ban cho mỗi con từ khi mới đến trần gian. Con hãy tìm đem ra mà sử dụng. Tâm con hòa bình, thế giới sẽ hòa bình, tâm con hiệp nhứt, tôn giáo sẽ hiệp nhứt. Các thứ ấy con không thể cầu ở tha lực tha nhân mà có đâu con!”[32]
“Cõi hậu thiên, thân sanh vào đó,
Điểm tiên thiên sẵn có nơi thân;
Là mầm sống là nguyên thần,
Là Trời, là Đạo, là Nhân của Người.”[33] ◙
___________________
III. TỰ THẮP SÁNG HIỆN HỮU
“Ta là ánh sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm.” (Ga 12,46)
Một Ki-Tô hữu đã nhắc lại câu Thánh kinh trên để kể chuyện “Làm thế nào sống trong ánh sáng”:
“Một hôm, vị đạo sĩ hỏi đệ tử: làm sao có thể biết được là ngày đã đến và đêm sắp kết thúc. Mỗi đệ tử trả lời một cách khác nhau nhưng không câu nào làm ông hài lòng. Sau cùng ông nói: “Khi chúng ta nhìn vào người bên cạnh, nếu chúng ta có thể nhìn người đó như người anh em của chúng ta, thì lúc đó là ngày đã đến chúng ta, nhưng bao lâu chúng ta chưa đạt được điều này thì chúng ta sống trong đêm tối.” (Góp nhặt)
Chúng ta phải sống như con cái sự sáng, không phải vì ích lợi cho chúng ta, mà còn để cho đời này bớt tối tăm. Thánh Phalô khuyên: “Anh em hãy chiếu sáng như những vòm sao trên bầu trời thế gian.”[1]
Đối với tín hữu Cao Đài, trên đường tu học hành đạo, muốn đạt được kỳ cùng mục đích, điều kiện tiên quyết là phải “tự thắp sáng hiện hữu”.
Thắp sáng hiện hữu có nghĩa là tự nhận thức con người thật mà mình đang sống; tức nhìn thẳng vào giá trị con người mình ở giữa xã hội, không che đậy, không mơ hồ tự dối. Như thế gọi là “tự biết mình”. Biết cái CON lẫn cái NGƯỜI của bản thân, cái “tâm” lẫn cái “thể”, cái “văn” và cái “chất”. Biết “con” là bản năng thú tánh còn lưu lại trên đường tiến hóa; biết “người” là nhân bản, là linh căn bẩm thụ từ Thượng Đế. Biết được rồi mới biết TỰ CHỦ để chế ngự cái “con” và hành sử nhân năng, tức cái “Người”.
Sách Đạo Học Chỉ Nam[2] viết: “Giá trị con người do con người tự tạo. . . Nhưng đứng về cá nhân mà xét, thật hoàn cảnh xã hội và con người hiện nay, nhận thấy có gì xứng đáng đâu? Con người là một hạt sương trên ngọn cỏ, một lượn sóng giữa trùng dương, thoạt mất thoạt còn, yếu ớt đến nỗi một con vi trùng, một ngọn gió phớt qua cũng đủ tiêu diệt trong một giờ hàng trăm hàng vạn người.
Một mặt khác, con người phải luôn luôn nhớ rằng: mình là “âm dương chi giao, quỷ thần chi hội”. Nghĩa là: Mình đứng giữa âm dương, phân nửa là thần, phân nửa là quỷ, có phải mà cũng có quấy, có thiện mà cũng có ác, vậy con người phải chọn con đường mà đi. Đi trúng con đường lành thì lên, bằng sái con đường lành thì xuống. Con người còn có thể tu nên Tiên, nên Phật, làm sư biểu cho muôn đời. Như thế, giá trị con người không phải là con người tự tạo cho mình sao?
Vậy vấn đề nhân bản là vấn đề hóc hiểm mà quan yếu. Nếu bản (gốc) không lập, thì Đạo không sanh. Người không gốc, thì người không đứng vững. Mà người là tâm, gốc của tâm là tánh. Biết vun trồng bản tánh, mới thiệt chỗ căn cơ, tông tổ của người.”
Nên Thánh giáo Cao Đài có dạy:
“Muốn làm người hành giả đi trên Đại Đạo để tìm về nơi nguyên bổn vĩnh cửu trường tồn, thì Bổn Huynh khuyên hãy thắp sáng hiện hữu trước khi để nhận thấy chỗ cứu cánh thật sự của đạo pháp, thì bước đường tu tiến mới vững vàng khi gặp lúc thiên ma vạn chướng ngăn ngõ đón đường, mới không bị chùn bước.”[3]
Thắp sáng hiện hữu không chỉ như thắp ánh đèn mà cả một quá trình chủ động trau dồi trí năng và nhân cách:
“. . .Học đạo rất hữu ích đó chư hiền đệ hiền muội! Học đạo lý bên ngoài để làm sáng tỏ đạo lý bên trong, nên nói học đạo là để làm người chí nhân chí mỹ. Tu công lập quả để đắp xây âm đức. Luyện đạo là chính mình làm sáng cái đạo tự hữu hằng hữu của mình để có một đời sống thực tiễn và ý nghĩa hơn. Như vậy, dầu lớn nhỏ, khi có tâm chí thì tu luyện cũng thành công. Nay được gặp thời kỳ ân xá mở rộng pháp môn, Thiêng liêng chống con thuyền đưa người vượt qua bỉ ngạn, nếu ai không giác ngộ thì khó sang qua đời thánh đức và khó vào cõi an lạc.”[4]
Như thế, thắp sáng bằng công trình đối trị thất tình lục dục; bằng công quả hy sinh giúp đời; bằng công phu quán chiếu nội tâm. Nên thánh giáo đã dạy tiếp:
“Hiện tại (…) lòng người điên đảo, ngoài thì tình thế rối ren, vì thế mỗi vị nên tự thắp sáng chính mình, có như vậy thì giờ khắc công phu cũng như phương pháp thiền định mới hợp với thiên lý và nhơn tâm, thì điển lực diệu dụng mới chan hòa khắp nơi và thắp sáng được hiện hữu, thì người Thiên ân hành giả mới cùng với Thánh Hội đem đến kết quả cho nhơn sanh, vừa tự độ, độ tha.”[5]
Trách nhiệm của người tín hữu bình thường, tự tu, cầu tiến phải rất cần mẫn như thế, còn đối với người hướng đạo giáo dân vi thiện còn nghiêm nhặt hơn nữa:
“Người lãnh đạo Thiên ân phải biết thắp sáng chính mình bằng khắc kỷ phục lễ, dám nhận khuyết điểm của mình trước đại chúng để đánh tan mối hoài nghi trong phần hành sự của mọi người, đó mới thật là sám hối.
Người Thiên ân hướng đạo mà chưa có cái đại hùng đại lực ấy thì chưa thể chấp trì quyền pháp của Đức Chí Tôn.[6]
Thiển nghĩ, bốn câu thánh thi sau đây có thể đúc kết, làm cẩm nang sống đạo cho mọi người giác ngộ đang cố gắng tự thắp sáng hiện hữu trên đường hành đạo cứu đời:
“Một trời, một đất, một lòng tin,
Biết đạo, trước tiên biết được mình,
Mới biết sống đời là sống đạo,
Đại thừa sứ mạng rất phân minh.”[7]
_____________________
[1] Nguyễn Ngọc Xuân, bài viết “Ánh sáng” từ Fb.
[2] Minh Lý Thánh Hội, Đạo Học Chỉ Nam, Mục “Giá trị con người do con người tự tạo”.
[3] Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 01-5 Đinh Tỵ (17-6-1977).
[4] Ibid.
[5] Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 03-11 Kỷ Mùi (21-12-1979).
[6] Ibid.
[7] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 15-01 Nhâm Tuất (08-02-1982)

Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu
Ngọ thời, 14-7 Kỷ Dậu (thứ Ba, 26-8-1969) : “các con là một trong vạn vật chúng sinh mà vạn vật chúng sinh là bản thể của Đạo, mà bản thể của Đạo tức là bản thể của Thầy”