Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Thời kỳ mạt pháp là thời kỳ được bắt đầu từ sau khi đức Phật nhập niết bàn 1500 năm, ...
-
(Của TRẦN HI DI TIÊN SANH) do Ngài cố Minh Thiện trích dịch năm 1960 1. Trần Lão tổ đặt bài ...
-
"Muốn sửa lòng, ngắm lòng Từ Phụ, Tu thân nhìn vũ-trụ là thân. Thái sơn, biển cả, vi trần, Tình thương chứa đựng ...
-
Mùa tu Thu Phân năm Mậu Tý, chúng ta được hướng dẩn về "Rèn tâm vô niệm". Ngày 19.9.2008. Vô niệm là ...
-
" Quyền pháp không giao riêng cho ai, cho xã hội nào, cho tôn giáo nào ; quyên pháp có ...
-
Những công trình nghiên cứu khảo cổ Kim Tự Tháp Ai Cập đã cung cấp cho nhân loại những khám ...
-
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, Rằm tháng 9 Giáp Dần (29.10.1974) KIM QUANG ĐỒNG TỬ, Tiểu Thánh chào chư Thiên ...
-
"Đức Thượng Đế đến Khai Minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề Hoát khai Đại Đạo ...
-
Bài nói chuyện của ĐH Phạm Văn Liêm ( Phó Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế HT. Truyền Giáo Cao ...
-
Theo Pháp Chánh Truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do chính Đức Chí Tôn Thượng Đế ban truyền, ...
-
Bài viết này giới thiệu về tiền thân của đức Lý sống vào thời nhà Đường, Trung Hoa và ...
-
Tam giáo Việt Nam đã có một lịch sử lâu dài, kể từ thế kỷ I, II trở đi, cho ...
Ban Biên Tập
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 02/01/2010
Quan Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn
Nguyên tắc Thiên nhân hiệp nhất dựa trên luật cảm ứng giữa Trời và người, nên thánh giáo viết "Con có thánh tâm sẽ có Thầy"Ngọc Hoàng Thượng Đế, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời rằm tháng Giêng Đinh Tỵ (04-03-1977), hay:
"Thượng Đế từ trên cõi mịt mù;
Người đời thiện nguyện dốc lo tu,
Tạo cơ cảm ứng thiên nhơn hiệp;
Để có thông công có tạc thù."Vạn Hạnh Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 22 tháng 7 Tân Hợi (11-9-71)
Cũng với luật cảm ứng, Đức Quan Thế Âm luôn luôn ứng hiện cứu khổ chúng sanh mỗi khi có bất cứ ai lâm nạn ở bất cứ nơi nào, giờ khắc nào, thành tâm hướng về Ngài, niệm danh hiệu Ngài cầu xin cứu độ. Vì lời đại nguyện thứ ba "ta bà ứng hiện" của Bồ Tát là:
Nguyện Thứ Ba: Ta Bà ứng hiện
Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan oan tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở, mau mau cứu liền.
Như thế sự cứu độ phải có hai chiều cảm ứng giữa đấng cứu độ và người cầu cứu độ. Và quyền lực thần thông của Bồ Tát được thể hiện bằng ngàn tay ngàn mắt của Ngài. Thật ra, đại nguyện và thần thông ấy có thể biến thành vô số tay và mắt để đáp ứng khấn nguyện thiết tha của chúng sanh trong ta bà thế giới.
Đặc biệt, trong thời hạ nguơn này Đức Chí Tôn khai Đại Đạo không chỉ lập một tôn giáo thông thường mà giao phó Sứ mạng TKPĐ từ thiên thượng đến thiên hạ. Nghĩa là không chỉ có chư Phật chư Tiên, Thánh Thần ra tay cứu độ chúng sanh, mà chính mỗi chúng sanh phải thọ nhận chánh pháp để tự độ và độ tha. Như thế mỗi cá thể nhân sanh sẽ trở nên tay và mắt, làm thành một phần tử thực thi Bồ tát đạo đối với toàn thể vạn linh.
Mắt tức trí huệ bát nhã ba la mật, tay tức từ bi cứu độ nhứt thiết khổ ách mà ĐĐTKPĐ dùng nguyên tắc Thên nhân hiệp nhất để tất cả nhân sanh đều tham gia vào đại cuộc cứu độ kỳ ba một khi đã trở thành người con tin của Thượng Đế
Nguyn tắc thứ hai: "Thiên đạo đại thừa". Muốn tạo thế "Thiên nhơn hiệp nhất" người sứ mạng phải bước lên "thiên đạo". Thiên đạo là pháp môn thực hành Tam công ( công quả - công trình – công phu ) tức Lục độ ba la mật của Phật giáo để đạt được thiên tâm, có khả năng thông công thể nhập vào thiên cơ, thiên lý.
Hai chữ "đại thừa" vừa có nghĩa tu giải thoát tâm linh, vừa thọ nhận sứ mạng phổ độ. Thiên đạo đại thừa là sứ mạng của hành giả từ bi cứu độ chúng sanh vô phân biệt theo "bình đẳng quan " Phật giáo hay nguyên lý "Thiên địa vạn vật đồng nhất thể" trong Cao Đài giáo.
Nên Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có đại nguyện thứ sáu như sau:
Nguyện Thứ Sáu: Thường hành bình đẳng
Lòng từ bi thương xót chúng sanh
Hỷ xả tất cả lỗi lầm
Thường hành bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
Vậy hình ảnh Bồ Tát thiên thủ thiên nhãn còn thể hiện Đức Đại Bi của Ngài, tương ứng với mục đích "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát" của Đại Đạo TKPĐ.
Tham khảo thêm:
HÌNH TƯỢNG
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM NGHÌN TAY NGHÌN MẮT
(từ Tín Ngưỡng Dân Gian đến Đỉnh Cao của Nền Mỹ Thuật Phật Giáo Việt Nam)
Thích Hạnh Tuấn
Chúng ta nhìn thấy trên đây bức hình của pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt bằng gỗ sơn son thiếp vàng, cao 3 mét 60 đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, Việt Nam. Pho tượng nầy đã được phục chế theo mẫu của pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang được trân quý và giữ gìn tại Chùa Ninh Phúc còn gọi là Chùa Bút Tháp tại tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Những đường nét tinh tế, điêu luyện và sự bố cục cân đối trong tư thế ngồi rất hùng tráng của pho tượng đã đạt đến đỉnh cao mỹ thuật của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ 17. Đã nhiều lần, pho tượng đã được đem đi ra ngoại quốc để triển lãm. Hiện nay, pho tượng nầy đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc hàng nghìn pho tượng lớn nhỏ khác nhau bởi nhiều điêu khắc gia tài ba lỗi lạc đã được thỉnh về tôn trí rất nhiều nơi trong nước cũng như rất nhiều chùa viện tại hải ngoại. (Hình trên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (cao 3.60 mét) đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội)
Quan Thế Âm hay Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) là biểu tượng tuyệt vời nhất của tư tưởng trí tuệ, từ bi, giác ngộ giải thoát của Phật Giáo Đại Thừa. Tại Việt Nam, tín ngưỡng tôn thờ tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm bằng gỗ, bằng đất nung và bằng đá hiện còn tồn tại xuất phát từ đời nhà Mạc, cuối thế kỷ thứ 16 (1527-1592). Tượng hình Quan Thế Âm Bồ Tát với tư thế ngồi toà sen rất được phổ biến từ thời đại nầy trở đi. Trong thời đại Nhà Mạc, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là pho tượng đặc trưng cho đỉnh cao của nền Mỹ thuật tượng hình của Phật Giáo Việt Nam.
Tại Việt Nam, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt có một chiều dài lịch sử phát triển đặc biệt cần được tìm hiểu một cách nghiêm túc. Một cách đại cương, pho tượng đã được phát nguồn từ tín ngưỡng trì tụng Thần Chú Đại Bi (Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni hay tiếng phạn đọc là Aryavalokitesvaraya Bodhisattvaya Mahasattvaya dharni), trở nên rất phổ thông và nổi tiếng không những chỉ trong giới tu sĩ xuất gia mà còn đối với giới cư sĩ tại gia. Trong đời nhà Lý đã có hàng ngàn tu sĩ trì tụng thần chú đại bi nầy, trong số đó có một vị thiền sư nổi tiếng là ngài Từ Đạo Hạnh (? -1117), hằng ngày phát nguyện trì tụng hàng trăm biến thần chú đại bi. Theo truyền thuyết được truyền tụng tại Chùa Thầy, tỉnh Hà Tây, ngài Từ Đạo Hạnh đã chứng đắc thần thông diệu dụng do sự nhiệm mầu và trì lực của Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt.
Kể từ thế kỷ thứ 13 trở đi, Bồ tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt được truyền tụng trong khắp dân gian, rất nhiều pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm được đêu khắc để phụng thờ tại rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Tuy vậy, rất ít ngôi chùa tại miền Bắc Việt Nam còn giữ được những pho tượng của giai đoạn lịch sử nầy. Cùng lúc đó, ngôi Chùa Đại Bi đã được xây cất trong. Cái tên gọi của chùa cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng sâu đậm tín ngưỡng trì tụng Thần Chú Đại Bi và sự linh hiển nhiệm mầu của Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm.
Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/hinhtuongbotatquantham.htm