

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Xuân là mùa hội tụ tinh hoa, hương sắc đất trời ; xuân mang nét thanh tân, hương vị ngạt ...
-
Vạn lý trường thành dài hơn 6700 km, bắt đầu được xây dựng vào đầu thế kỷ 3 TCNđể ngăn ...
-
Cụm từ Tam Kỳ Phổ Độ bao hàm hai ý nghĩa: Ý thứ nhất: Diễn tả lần lượt cho ba lần ...
-
Tâm sự của mùa Xuân Thời gian là dòng sông vĩnh cửu, nhưng nếu không có bốn mùa thì lấy ...
-
by otoabasi on June 25, 2010 Many people don't like reading and it that has become well known trait existing in ...
-
Thứ Sáu, 04/05/2007, 17:41 (GMT+7) TTO - Mùa xuân này, nữ sĩ Mộng Tuyết trở bệnh ở tuổi 95. Hiện bà đang ...
-
. . ."Trong sở vật thực tại con người, điểm Quyền Pháp là linh hồn. Nhờ đó mà sinh ra, ...
-
Kính thưa quý vị, Hôm nay là ngày Lễ Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ, đồng thời là ngày kỷ niệm ...
-
1. Hiểu được tầm quan trọng của công phu thì cấp nào cũng siêng cúng, siêng tịnh nhờ đó ...
-
Khai minh Đại Đạo để cứu độ vạn linh thời Hạ Nguơn này, Đức Thượng Đế Chí Tôn đã nêu ...
-
Đây là chuyện tôi nghe. Ngày nọ người ta kháo nhau quỷ sứ đang bán hàng đại hạ giá. Mọi ...
-
Nhân loại đang ở giữa hai cực đoan của khoa học và đạo giáo.
Sưu tầm
Thiền Tông và Tịnh Độ Tông của Phật giáo
Đức Phật ra đời với mục đích chỉ cho chúng sanh thấy con đường thoát khổ. Tất cả tám mươi bốn ngàn pháp môn Ngài đều nhắm vào mục đích duy nhất đó thôi, nên dù pháp môn nào thì cũng vẫn có thể quy vào một mối là con đường giải thoát. Hiển nhiên, tùy khả năng của chúng sanh mà mỗi người thích hợp với một pháp môn nào đó, nhưng vào thời mạt pháp có nhiều chướng ngại, pháp môn thích hợp nhất là tịnh độ.
Tại sao thời mạt pháp lại có nhiều chướng ngại ?
- Vào thời chánh pháp, khi Đức Phật còn tại thế đi thuyết pháp độ sanh thì gần như ngàn người tu cả ngàn người đều ngộ. Vào thời tượng pháp, sau khi Đức Phật đã nhập diệt nhưng vẫn còn các đại đệ tử của Ngài đích thân chỉ dạy thì ngàn người tu thì cũng có đến trăm người ngộ. Đến thời kỳ mạt pháp, các bậc Thiện tri thức không còn bao nhiêu, mà chúng sanh thì hung hăng khó dạy, nhiều tham sân si; lại thêm tà đạo phát triển, phá hoại giáo pháp chân chính khiến tinh hoa phật pháp bị thất truyền hoặc bị hiểu sai lạc, đời người thì ngắn mà phiền não lại nhiều, chúng sanh bị lôi cuốn theo dục vọng, hành động theo sự chi phối của tham sân si, nên tu hành khó có kết quả được. Do đó, vào thời mạt pháp, ngàn kẻ tu chỉ vài người ngộ. Biết chúng sinh trong thời này thường u mê, thiếu sáng suốt nên Đức Phật đã truyền dạy pháp môn tịnh độ, chỉ cách niệm Phật để cầu vãng sanh.
- Trên nguyên tắc thì như vậy nhưng tại sao có nhiều người tu tịnh độ, lễ bái rất chuyên cần mà vẫn không đạt kết quả bao nhiêu. Nhiều người đi chùa lễ Phật năm này qua năm khác mà vẫn chứng nào tật nấy.
- Có lẽ họ không nắm vững được qui tắc căn bản của tịnh độ là "chí tâm, chí thành" mà chỉ thực hành như một thói quen máy móc nên không được kết quả bao nhiêu.
- Thế nào là quy tắc căn bản ?
Trước hết nên biết "Tịnh Độ" không những chú trọng đến tha lực mà còn đòi hỏi cả công phu về tự lực nữa. Quy tắc căn bản của Tịnh Độ là phải biết nghiêm trì sáu căn, ba nghiệp cho thật thanh tịnh để lúc niệm Phật được nhất tâm, đó là phần tự lực. Khi nào hành lễ mà thấy tự tâm tha thiết mạnh mẽ, không hề có vọng tưởng thì có thể cảm thông được với chân tâm của chư Phật trong pháp giới. Thật ra tâm Phật và chúng sanh vốn nào có khác, đều cùng một bản thể nhưng vì chúng sanh chưa ý thức điều này, còn bị vô minh che phủ nên mới có sự phân biệt xa cách. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay đã gây bao tội ác, dù công phu tu tập đến đâu cũng khó trong một đời mà giải trừ được hết nghiệp chướng nên phải nương nhờ oai lực lời kinh, câu niệm Phật để tiêu trừ bớt nghiệp, giúp cho tín căn, tín lực gia tăng mà được vãng sanh, đó là phần tha lực.
- Việc nghiêm trì sáu căn, ba nghiệp để được nhất tâm như thế nào ?
- Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Khi hành lễ phải biết giữ sao cho mắt đừng nhìn ngang nhìn ngữa vì ngoại cảnh lọt vào mắt dễ làm cho tâm sinh loạn tưởng. Phải làm chủ con mắt, chỉ chăm chú nhìn nơi tượng Phật hoặc giữ hình ảnh của Đức Phật trong tâm mà thôi. Nhiều người tuy miệng niệm Phật mà mắt vẫn nhìn quanh rồi tâm sanh vọng động, nghĩ ngợi lo lắng đủ thứ thì làm sao có thể nhất tâm bất loạn !
Khi hành lễ phải biết chú tâm vào những câu kinh, tai phải nghe thật rõ từng câu, từng chữ, từng danh hiệu Phật. Niệm đến đâu phải biết đến đó, niệm một câu biết một câu, niệm mười câu biết mười câu chớ không lẫn lộn hoặc lầm lạc. Phải biết chuyên chú niệm Phật, đừng để cho tai nghe những tiếng động khác chung quanh mà làm cho tâm ý vọng động. Cũng tương tự như thế, phải hoàn toàn làm chủ các căn thức khác như mũi, lưỡi, thân, ý, không để cho chúng lọt ra ngoài sự kiểm soát của tâm, khi cả 6 căn thức được thu nhiếp lại, đặt dưới sự kiểm soát của tâm, không còn loạn tưởng, không còn vọng động thì đó chính là chánh niệm rồi.
Chánh niệm khi tu Tịnh độ không khác gì An tâm lúc tu thiền.
Ba nghiệp là Thân, Khẩu và Ý. Phải biết khắc phục thân nghiệp, khi hành lễ phải giữ thân thể ngay ngắn , ngồi thẳng lưng, đứng lên ngồi xuống phải vững chắc đừng xiêu vẹo. Khi lạy xuống phải giữ cho đầu, hai tay, hai chân sát xuống đất (ngũ thể đầu địa) thật cung kính. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi công phu thực tập chuyên cần không khác công phu thiền tọa của Thiền tông bao nhiêu.
Phải biết khắc phục Khẩu nghiệp bằng cách sử dụng miệng lưỡi để tán thán công đức tam bảo, đọc tụng kinh chú một cách thành tín, nghiêm trang, không ngừng nghỉ. Phải tập thói quen chỉ dùng miệng lưỡi để nói những điều lành, lợi lạc cho muôn loài chúng sanh mà thôi. Trong lúc hành lễ không được nói chuyện gì khác mà chỉ chuyên tâm niệm Phật.
Phải biết khắc phục Ý nghiệp, phải tập trung tư tưởng, chí tâm chí thành, không vọng tưởng hay xin xỏ điều gì, mà chỉ thiết tha mong vãng sinh về Cực lạc. Nên nhớ các nghiệp chướng từ trước vẫn tích lũy trong tâm. Khi lễ Phật, tâm yên tĩnh nó sẽ phát động, nảy sinh biết bao ý tưởng triền miên, hết điều này đến điều khác, ngăn trở công phu luyện tập.
Trong ba nghiệp thì Ý nghiệp mạnh nhất, ít ai có thể kiểm soát được nên người hành lễ phải trông nhờ vào tha lực của chư Phật hộ trì cho. Thay vì để cho tâm điên đảo, vọng tưởng, nghĩ ngợi lung tung, người hành lễ phải chí tâm chí thành niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Oai lực của sáu chữ hồng danh rất lớn, bất khả tư nghì, nếu người tu nhất tâm trì tụng có thể khắc phục được Ý nghiệp.
Khi ba nghiệp thanh tịnh, sáu căn thâu nhiếp được nhất tâm thì trí tuệ sẽ sáng suốt và chắc chắn được vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Tóm lại, Tịnh độ bao gồm cả tự lực lẫn tha lực, tuy giản dị nhưng công năng vô cùng huyền diệu,. Những người chưa hiểu thấu đáo, thấy giản dị mà coi thường là bỏ qua một cơ hội hiếm có. Những người không nắm vững quy tắc căn bản của Tịnh Độ, không ý thức việc nghiêm trì 6 căn ba nghiệp thì dù có tụng đọc thiên kinh vạn quyển cũng chẳng ích lợi bao nhiêu. Nhiều người cho rằng tu Tịnh Độ chỉ trông chờ vào tha lực tiếp dẫn mà thôi, cũng là thiếu sót.
Thiếu tự lực thì khôn g thể được nhất tâm, thì làm sao thông cảm được với Chơn tâm của chư Phật.
Khi thiếu tâm thành mà chỉ mong cầu nầy nọ là tham lam, mà đã tham lam thì làm sao có kết quả được ! Người tu Tịnh Độ không cần xin gì ngoài việc vãng sinh về cõi Tây Phương, chúng ta nên nhớ rõ điều đó.