Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Nhân tiết đầu Xuân, mà cũng là đầu năm, muốn nói về Đạo hằng thường trong bốn mùa tám tiết, ...
-
Trong một lần lâm đàn trợ giúp các vị hướng đạo thực thi đạo sự, Đức Quảng Đức Chơn Tiên ...
-
“Thành công không do những cái đã nắm đặng ở trong tay; thất bại không do những cái đã vuột ...
-
Lịch sử đạo Cao Đài cho thấy đức tin Cao Đài, từ lúc chưa nảy sinh đến lúc lập thành ...
-
I. Định nghĩa Nhân văn: Nhân 人 là con người; Văn: 文 là văn vẻ; văn từ; cái dấu vết ...
-
Năm 1947, hai mươi năm sau khi bắt đầu tạo dựng Thánh Địa Tây Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm Công ...
-
Từ xưa đến nay, đồng bào Việt và Hoa đến ngày rằm tháng Giêng, nhân tiết xuân còn đượm, thường ...
-
Hội ý bài kệ “Nhãn thị chủ tâm” của Đức Chí Tôn, thì Chánh pháp này cũng đặt tại Tâm ...
-
Theo nhiều văn bản của triết học và thần học, hình tròn còn là biểu tượng đặc trưng cho Thượng ...
-
Mở đầu Nhìn lại lich sử tôn giáo thế giới, qua Nhất kỳ, Nhị kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế đã ...
-
Lâu nay chúng ta nghe nói đến hình thức "Quán thủ", nghĩa là cứ lấy chữ đầu của mỗi câu ...
-
Nhân lễ Giáng sinh hôm nay và qua những suy niệm chân thành nầy, cuối cùng chúng ta hãy nhắc ...
Nhịp cầu giáo lý
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009
Quan Âm Tự (Phú Quốc)
, hơn các chùa khác về vẻ thanh vắng, u tịch. Thi sĩ Đông Hồ [2] Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906 - 1969) là một nhà thơ đất Hà Tiên. Ông đã có công sưu tầm, dịch và giới thiệu thơ của Tao Đàn Chiêu Anh Các (do Mạc Thiên Tích (1706 - 1780) sáng lập rằm tháng Giêng Bính Thìn - 1736). Ông Lâm Tấn Phác có người cô ruột tên Lâm Thị Đào Hoa, là vợ sau ông Huỳnh Kim Chung (nêu bên trên). Bài báo "Thăm đảo Phú Quốc" này đăng trong Nam Phong tạp chí số 124 – 1927 - Trang 545trong dịp viếng chùa Quan Âm ngày 15-12-1927 có tả như sau: "Chùa cất trên tuyệt đỉnh, trước mặt thì có núi cao bình án, sau lưng thì có biển rộng hoành triều, rất được thế non thế nước. Tường đá rào tre quanh co, các thứ nhàn hoa cổ thụ u ảo thanh tĩnh vô cùng".
Quan Âm Đường đầu tiên do hai ông Huỳnh Kim Chung (Đạo danh Huỳnh Đăng Khoa) và ông Đỗ Minh Châu tạo lập. Khi nhị vị qua đời, con ông Đỗ Minh Châu là Đỗ Kim Cự kế tục. Sau, ông Cự giao cho ông Đỗ Văn Đồ (thường gọi là Tám Gia) trông nom chùa, ông này tánh khí thất thường, thô lỗ. Năm 1921, ông Tám Gia gây trở ngại, việc học đạo của Ngài Ngô Văn Chiêu phải dời xuống Sùng Hưng
Tự bên cạnh, dưới chân núi Dương Đông. Từ đó Quan Âm Tự suy sụp dần, sau rồi không còn ai trông coi, bị hoang phế, hủy hoại.
Đến năm 1961, một số đệ tử phái Chiếu Minh gồm quý ông: Nguyễn Văn Truyện, Bùi Thiện Hùng, Trần Minh Trí... tìm được vết tích Quan Âm Tự. Ban Trị Sự đứng tên mướn lô công thổ số 129 này bằng giao kèo ngày 6-12-1961, sau đó xây cất lại trên nền chùa cũ ngôi Cao Đài Hội Thánh, khuôn viên nền và bệ thờ giữ đúng theo vị trí của chùa xưa.
Chú thích :
[Chú thích hình] Ảnh chụp Cao Đài Hội Thánh cất trên vị trí nền Quan Âm Tự cũ. Địa chỉ hiện nay thuộc khu phố 1, thị trấn Dương Đông.