Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Le livre « THÁNH-NGÔN HIỆP-TUYỂN », son titre vietnamien, a inspiré à Sa Sainteté Hộ-Pháp Phạm Công Tắc l’appellation « ...
-
Dầu lớn, dầu nhỏ, con người và vạn vật đều cũng nhận nơi Tạo Hóa một bản nguyên bất tử, ...
-
Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác ...
-
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, ngày 29 tháng 8 Quí Hợi THI NHƯ vầy không nở Lão làm ngơ, ...
-
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo. Tháng 3-2007 (Đinh ...
-
HOÁN TỈNH XUÂN HỒN . . .Hỏi Xuân, Xuân mấy tuổi già ? Xuân đưa lại, lại rồi qua, xuân với ta ...
-
THI QUAN hải non Nam dạo cảnh nhàn, ÂM thinh hạ giới chợt kêu vang, Bồ đoàn tọa thị nhìn nơi đấy, TÁT cảm ...
-
Hôm nay, theo vận số của một năm là thời điểm Hạ nguơn. Thời điểm này được chọn làm ngày ...
-
Quán Tự Tại Bồ đề tát dã Lúc vào sâu Bác nhã Ba la, Không nhơn không pháp mới là Phát khai trí ...
-
"Hòa bình hay hiệp nhứt, Đức Thượng Đế đã ban cho mỗi con từ khi mới đến trần gian. Con ...
-
Biến Hoá kinh, viết vào khoảng năm 612 sau CN (thời Tùy Dạng Đế) cho rằng Lão Tử chẳng những ...
-
Mới đây, một chiếc trống đồng khá đặc biệt đã được người dân phát hiện, trục vớt từ lòng sông ...
SƯU TẦM
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/07/2014
TÌM HIỂU ĐỨC TIN TÔN GIÁO
LÝ TƯỞNG ĐẠI ĐẠO (Thánh giáo)
THI
CAO tài trọng đức mới cao ngôi,
TRIỀU chính nền nhân trước đắp bồi;
PHÁT lộ nguồn tâm chân, thiện, mỹ,
Mừng vui Đại Đạo dựng xây đời.
Đây Tiên Huynh tóm lược lý tưởng Đại Đạo để các em suy gẫm nhìn thấy chỗ tối cao, tận thiện, tận mỹ của chánh pháp Kỳ ba.
1.- Đại Đạo là con đường rộng lớn nhứt để đưa nhân loại đến đại đồng thế giới không kỳ thị phân chia, phù hợp xu hướng văn minh tiến bộ tạo cảnh giới an lạc, hòa bình, hạnh phúc trần gian và siêu xuất thế gian, đó cũng là chiếc Bát Nhã Thoàn đưa khách năm châu đến cứu cánh tận độ.
2.- Đại Đạo là cánh cửa Càn Khôn rộng mở cho văn minh khoa học loài người đạt đến điểm cao vút để nhìn thấy cơ vi mầu nhiệm của Tạo Hóa mà thành tín trước Đức Háo Sanh mầu nhiệm và Đức Từ Bi sáng tạo vô ngần của THƯỢNG ĐẾ. Như vậy, Đại Đạo là con đường chân lý mà loài người phải vươn tới.
3.- Đại Đạo đưa con người tiến hóa lên nấc thang đạo đức tận thiện tận mỹ:
- Chánh pháp Thầy truyền.
- Giáo lý các Đấng Thiêng Liêng dạy.
- Tình dân tộc nghĩa đồng bào của chư môn đệ.
- Cứu cánh tận độ của ĐỨC CHÍ TÔN đặt để
- Và môi trường xã hội loài người.
Cả thảy đều là yếu tố tích cực rất thuận lợi cho loài người tiến đến đạo đức cao cả, nhất là vào thời kỳ mạt kiếp.
4.- Trong phạm vi khác, Đại Đạo có thể là con đường sứ mạng của dân tộc Việt vì giáo lý Cao Đài là kết hợp tinh thần văn hiến của dân Việt. Đó là điều hãnh diện của dân tộc trong công cuộc xây dựng văn minh thế giới chung.
Vậy đó chẳng phải là con đường tối ưu của cả thảy chư môn đệ ĐỨC THƯỢNG ĐẾ, của hàng Thiên ân hướng đạo, của Thanh Thiếu Niên Đại Đạo sao ? . . .”
ĐỨC TIN CAO Đ ÀI
Lịch sử đạo Cao Đài cho thấy đức tin Cao Đài, từ lúc chưa nảy sinh đến lúc lập thành vững chắc nơi những người môn đệ đầu tiên là cả một biến chuyển kỳ diệu và trọng đại trong một thời gian ngắn ngủi để khai minh Đại Đạo.
Giai đoạn lịch sử ấy, trước hết xác minh sự hiện hữu của vũ trụ tâm linh. Nói đúng hơn, xác minh vũ trụ là một Càn Khôn thống nhất, một tổng thể của sự sống hữu hình lẫn vô hình.
Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.
Cứu cánh tiến hóa phải đạt đến tâm linh viên mãn. Và trong vũ trụ chỉ có một tâm linh viên mãn tuyệt đối là Thượng Đế.
Tuy nhiên, Thượng Đế mở cơ Phổ độ tam kỳ không phải chỉ là một cuộc gieo rắc đức tin về sự hiện hữu của Thượng Đế, mà chủ yếu là để loài người biết được ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Thượng Đế là tuyệt đích của cuộc tiến hóa giữa Càn khôn, nhưng Ngài không phủ định giá trị con người là chủ thể đang tiến hóa tại thế gian.
I. Định nghĩa :
Có thể mạn phép mượn thánh ngôn Đức Vân Hương Thánh Mẫu để định nghĩa đức tin Cao Đài như sau:
“Đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, vào các Đấng Thiêng Liêng qua linh cơ để giác ngộ khải mê, giúp tín hữu Cao Đài thức tỉnh tiến bước hành đạo phản bổn hoàn nguyên”
Tác giả thư Hebrew trong Tân Ước viết, “Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đang trông mong, là bằng cớ (hoặc xác tín) của những điều mình chẳng xem thấy”. (Hebrew 11.1).
Đức tin trong Cơ Đốc giáo là niềm xác tín vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, đấng sáng tạo vũ trụ, và niềm tin vào ân điển cứu chuộc của Chúa Cơ Đốc, Con của Thiên Chúa hằng sống, đấng đã chết vì tội lỗi của nhân loại, mặc dù vẫn có thể tìm thấy một vài dị biệt trong các hệ tư tưởng khác nhau thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo.
Đức tin theo Phật giáo đặt trọng tâm vào Đức Thế tôn Thích Ca - bậc đại giác, vị thầy của cả loài người và chư thiên - dựa vào chân lý của giáo pháp của Ngài và Tăng hội. Đức tin của Phật giáo là động lực thúc đẩy phật tử tu tập hướng về mục đích giác ngộ và Niết Bàn. ( l ư ợc d ịch theo Wikipedia encyckopedia English)
II. Đức tin Cao Đài trong Sử đạo
1. Thiên nhãn hiện ra với Đức Ngô Minh Chiêu có ý nghĩa đặc biệt là Thượng Đế trực tiếp đem đức tin đến cho con người.
2. Nhóm Phò loan vâng lịnh Đức A Ă Â làm lễ “Vọng thiên cầu đạo”
có ý nghĩa đặc biệt là con người thể hiện đức tin trọn vẹn nơi Thượng Đế .
3. Chư Tiền Khai “khai tịch đạo với nhà đương cuộc lúc bấy giờ ”một cách hiên ngang, có ý nghĩa đặc biệt là môn đệ Đức Cao Đài trọn tin nơi thiên cơ sẽ lập nền tân tôn giáo của Tam kỳ phổ độ.
4. Đại lễ Khai Đạo vào Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926) có ý nghĩa đặc biệt Thiên nhân hiệp nhất “khai minh Đại Đạo trước quốc dân bá tánh” thể hiện đức tin ra thực tướng Đại Đao Tam Kỳ Phổ Độ.
5. Đó là đức tin Cao Đài trên những sự kiện lịch sử hữu hình; nhưng về mặt vô vi, tiến trình lập đạo còn vận chuyển theo nguyên lý “Thái cực biến Lưỡng nghi thành Pháp”, cũng là một chứng lý cho đức tin, như thánh giáo Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy:
“Ngô Văn Chiêu là một anh cả trong Thập Nhị Tông Đồ đầu tiên. Ngô Văn Chiêu đã kiến nhận và tiếp lãnh dấu hiệu Thiên Nhãn. Nói về lý số Thiên Nhãn là con số 1, tượng trưng cho Ngôi Thái Cực.
Kế đến lập thành lưỡng nghi nơi Vĩnh Nguyên Tự. Đó là Nhựt Nguyệt Âm Dương.[Thiên phong nhị vị Đầu sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt –NV.]
Từ Thái Cực biến Lưỡng Nghi trở thành cái Pháp sanh hóa muôn loài vạn vật mà cái Pháp ấy Hộ Pháp đã tượng trưng.”
III. Người tín hữu Cao Đài phải giữ đạo, hành đạo với đức tin như thế nào?
1. Một đức tin trong sáng : vào Đạo để bắt đầu đời sống tâm linh tích cực trong cuộc sống nhân sinh chân chánh, chứ không phải để trốn đời hay tìm kiếm thế lực vô hình cho những nấc thang danh lợi. Ơn Trên dạy:
“Chư hiền đệ hiền muội đã ý thức được thiên đàng địa ngục là đâu. Có phải ở tận trên vòm trời sâu thẳm hay ở dưới đáy biển lòng đất sâu dày đó chăng ? Tất cả thiên đàng hay địa ngục điều có tự trong con người chư đệ muội. Nếu chư hiền đệ hiền muội biết hướng thượng, biết gìn thiên lương chơn tánh, biết trau dồi báu ngọc mâu ni, chư hiền đệ hiền muội sẽ có một cảnh thiên đàng trong nội tâm ngày ngày an lạc. Ngược lại, chư hiền đệ mãi tiến bước trên con đường dục vọng buông bắt những ảo ảnh phù hoa, làm sao tránh được cảnh buồn vui cười khóc, được mất nhục vinh ? [ . . .]
Người tu hành không tìm đạo lý ở ngoài thân mà phải tìm ở nội tâm .”
2. Một niềm tin sâu sắc về thời kỳ đại ân xá:
Nhập môn Cao Đài là là cơ hội hi hữu ngàn năm một thuở được bước vào môi trường đại ân xá kỳ ba, nên Ơn Trên thường dạy rằng: hữu duyên mới ngộ Đại Đạo TKPĐ. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn từng dạy :
“Hỡi này chư hiền đệ muội ôi! Tam Kỳ khai Đại Đạo, Tam Giáo Thánh Nhơn mở rộng cửa từ bi để gom ba nhành về một cội. Trên Thượng Đế thi ân bố đức, dưới phật tiên kêu gọi chúng sanh đưa nguyên căn về bổn vị, rước hóa nhơn tránh cảnh luân hồi. [ . . .]
Đã từ lâu, cơ quy nguyên rải gieo khắp chốn, tiếng thống nhứt lắm lần vội giục, ngày vạn linh đại hội cũng gần, vậy Lão thử hỏi chư hiền, nếu không đủ đầy công đức thì làm sao được siêu phàm thoát tục; lấy chi để đảm bảo chơn linh sau khi lìa xác. Phương chi, kỳ hạ nguơn mạt kiếp là kỳ đại ân xá để cho chư hiền lưỡng phái dưỡng tánh tu tâm, tô công bồi đức được dễ dàng, hầu bước lên nấc thang hành đạo”.
3. Một đức tin để tu tiến: Cao Đài đã vạch ra con đường tiến hóa tâm linh rất rõ ràng và thuận lợi hơn bao giờ hết trong thế Thiên nhơn hiệp nhất của cơ tận độ quy nguyên.
_Cao Đài xác nhận con người là “thiên hạ tối linh” có khả năng tiến hóa siêu xuất thế gian.
_Đức Chí Tôn khai Đại Đạo TKPĐ để tận độ từ hóa nhân đến nguyên nhân bằng Tân pháp Cao Đài.
_Thầy từng dạy: “Từ Thầy khai Đại Đạo đến nay, không có một việc gì mà không nhắc nhở cho con, không có một đường lối tiến hóa hay cạm bẫy mà không kêu gọi chỉ dẫn các con.”
_Chư Tiền Khai Đại Đạo cũng từng ân cần khuyên nhủ chúng ta:
Khép mình vào khuôn viên mẫu mực,
Giữ qui điều giới luật tam công ;
Cúi đầu thọ lệnh Thiên phong,
Thay Thầy hoằng đạo còn mong chi là.
4. Một đức tin để thi hành sứ mạng kỳ ba:
_Đức tin phải đạt đến giá trị của ý chí hiến dâng: “ Đối với những người mệnh danh là hướng đạo, là nồng cốt cho cơ đạo cứu thế, những kẻ hiến dâng cho ánh sáng lý tưởng Đại Đạo thì nền tảng tâm linh phải được xác định trước tiên và hơn ai hết. Vì vậy, kế sách về tâm linh cho những kẻ hiến dâng phải được đề cập trước nhất. Bần Đạo cũng nhắc lại trên phạm trù tâm linh, giá trị đức tin là giá trị của ý chí hiến dâng cho một lý tưởng sáng chói để cứu thế. Có một đức tin dõng mảnh là đã có một ý chí hào hùng tin quyết về kết thúc cao quý của sự cứu độ toàn dân sinh bằng một lý tưởng thật sự thanh cao của Đại Đạo. Phải tin quyết thì mới nhất tâm để chí thành hành sự. Đã có nhất tâm chí thành hành sự thì kết quả không xa.”
_ Đức tin phải đạt đến tự tin nơi sứ mạng của chính mình:”Các em đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, vào các Đấng Thiêng Liêng qua linh cơ để giác ngộ khải mê, giúp các em thức tỉnh tiến bước hành đạo phản bổn hoàn nguyên. Chị cho là đúng. Đó là phần hướng nội là tự xem chính mình có thật sự tin hay không. Đã tin thì chính mình là đạo, phải thay Trời mà vận hành tự cường bất tức.”
IV. KẾT LUẬN
Tóm lại đức tin Cao Đài với hàm xúc những ý nghĩa trên đây, phải gọi là Đức tin Đại Đạo. Bởi vì Thượng Đế và các Đấng Thiêng liêng đã đem đến cho nhân sanh thời TKPĐ này một đức tin khai phóng và nhân bản.
_ Khai phóng vì với đức tin ấy, con người cảm thấy mình là một chủ thể tự do trong Bản thể vũ trụ, trong đó có mối tương quan tương ứng mật thiết với chủ thể tối cao là Thượng Đế. Từ mối liên hệ đó, đức tin Đại Đạo khẳng định con người có khả năng tiến hóa đến mức siêu việt.
_ Nhân bản vì đức tin ấy không khuyến khích tín hữu lệ thuộc thần quyền; không chờ đợi được cứu độ mà phải biết tự độ. Hơn nữa, đức tin Đại Đạo đem đến ý thức sứ mạng vi nhân, nhìn cuộc đời là một trường học hỏi, rèn luyện để tiến hóa . Đối với chúng sanh là tình anh em một Cha, đối với xã hội có nghĩa vụ phụng sự.
Đặc biệt, hàng thiên ân thọ nhận Sứ mạng đại thừa, với đức tin Đại Đạo, phải đạt đến “giá trị của ý chí hiến dâng cho một lý tưởng sáng chói để cứu thế. “
Đức Chí Tôn khai minh Đại Đạo cách đây hơn 80 năm, mà hằng năm, ngày Rằm tháng 10, toàn đạo hân hoan cử hành đại lễ kỷ niệm, là thắp lên ngọn đuốc vĩnh cửu, soi tỏ Thiên cơ đang thúc đẩy nhân sanh tiến lên Con đường phản bổn hoàn nguyên là đường tiến hóa vinh diệu trong đức háo sanh của Thượng Đế, mà đặc ân trong thời Hạ nguơn nầy là Cơ đại ân xá kỳ ba.◙
ĐỨC TIN PHẬT GIÁO
Ðức Thích Ca có dạy: "Tin là căn bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành". Nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, không suy xét.
Ðức Thích Ca có dạy: "Tin là căn bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành". Nhưng lòng tin của người Phật Tử không phải là một lòng tin cuồng nhiệt, sôi nổi, không suy xét.
Một đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã hội. Cái tín ngưỡng sai lầm có thể làm hại tinh thần quần chúng. Sự tín ngưỡng mù quáng không căn cứ trên lý trí xét đoán đã đào luyện và sẽ đào luyện lên những trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ cho dục vọng.
Một đức tin hổn tạp, thiếu căn cứ, thường hay đi với sự nương nhờ vào một thế lực phỉnh phờ. Hai thứ ấy nương nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau rất mạnh. Hai thứ ấy cũng đều tạo nên những bộ óc yếu đuối, ỷ lại, thiếu tinh thần tự lập. Do một tin tưởng sai lầm, tinh thần càng ngày càng bị u tối, và sau bức màn thành kiến, con người làm sao trổi dậy, cường tráng và tự lập cho được?
Ðạo Phật truyền sang đất Việt đã gần 2.000 năm, có thời rực rở huy hoàng, nhưng cũng có thời lu mờ hôn ám. Rực rở huy hoàng hay lu mờ hôn ám chỉ là ở tại đức tin: mê tín đã gây nên cái hình thức tào tạp của đạo Phật của thời cận đại. Có nhiều người tự xưng là tín đồ đạo Phật mà lại có những tín ngưỡng sai lạc hẳn tinh thần Phật Giáo. Căn cứ vào hình thức ấy, người ta vội mỉm cười, cho đạo Phật là mê tín, là ỷ lại thần quyền, là chỉ lo tư lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu đuối.
Số người chịu khó đi sâu vào tinh thần Phật Giáo có được bao nhiêu đâu! Nhiều kẻ mang danh là tín đồ mà sự hiểu biết và hành động trái hẳn giáo lý Phật dạy, phản lại tinh thần từ-bi trí-tuệ của Phật Tổ. Nhận xét bằng một cặp mắt kém nhận xét, nhiều người trông thấy những màu mè ấy vội kết luận rằng đạo Phật chỉ là một đa thần giáo như những đa thần giáo ngày xưa!
Phật giáo nước Việt trong mấy thế kỷ vừa qua đã có một hình thức tào tạp. Những hình thức bói xăm, vàng mã, đồng bóng họp chung lại gọi là "đạo", và trong trường hợp nào (ví dụ như lên đồng lên bóng chẳng hạn) người ta cũng "mô Phật" được! Những vị chân tu cùng đạo Phật chân chính, vì thế, được ít người biết đến. Hèn gì mà đạo Phật không bị nhận thức sai lầm.
Có bao nhiêu kẻ thường ngày không biết đến Phật, không nghe, không hiểu, và không làm theo lời Phật dạy, khi lâm nạn mới đến chùa tháp, đốt một nén hương khẩn cầu. Họ xem đạo Phật là một lối chuyên môn thờ cúng, và Phật là một vị thần thiêng liêng sẵn sàng ban phúc diệt họa cho họ mỗi khi họ cần đến.
Một hôm, có người trong phái Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: "Bạch đức Thế Tôn, các thầy Bà-la-môn ngoại đạo đến thăm chúng tôi, người nào cũng bảo rằng chỉ có lời của họ mới đúng chân lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng tôi thật lấy làm phân vân không biết theo bên nào, bỏ bên nào".
Trả lời câu hỏi ấy, đức Phật không bảo rằng Ngài là chúa tể vạn vật, chỉ có đạo Ngài mới nên theo; ngài không bảo rằng các vị giáo chủ và các đạo khác đều là hư ngụy, là sai lầm. Lời dạy của Ngài rất rộng rãi. Ngài bảo: "Ngươi đừng vội tin theo ai cả. Tất cả những gì ngươi đã thực nghiệm sâu xa, hợp với lý trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại hạnh phúc cho chính ngươi và những kẻ khác, những cái ấy, ngươi hãy nhận đó là chân lý và hãy cố sống đúng theo chân lý ấy ".
Ðọc đoạn vừa rồi trong kinh Kalama, chúng ta nhận thấy hai điều: một là đạo Phật không bao giờ bắt buộc người ta tin theo một cách mù quáng; hai là đức Phật không phải là một vị chúa tể có quyền phép lạ, có thể đem tín đồ mình đặt ở thiên đường hay ở địa ngục tùy theo ý thích của mình.
Nội một sự kiện " không buộc người phải tin theo một cách mù quáng" đủ chứng tỏ rằng đạo Phật có một tinh thần thật rộng rãi và có tính cách nhân loại. Ðạo Phật dạy rằng không hiểu Phật mà theo Phật thì đã không có lợi mà còn có hại là khác nữa.
Chính đức Phật Thích Ca cũng có dạy: "Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy ".
Như thế, người nào tin Phật như một vị chúa tể có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.
Một lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán. Hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tin. Ðối với đạo Phật, tin mà không hiểu thì sẽ lạc đường.
Ðạo Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là tùy ở mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:
"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo.
Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".
Tam Tạng giáo điển của Phật Giáo đối với Phật Tử không giống những thánh kinh đối với tín đồ các tôn giáo khác. Phật Tử không bị bắt buộc tin vào kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật Giáo không phải là một "tối hậu chân lý", một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển không phải là những bùa chú linh thiêng mà hể đọc lên là được Ðức Phật cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác ngộ. Ðức Phật đã từng nói:
"Này các tỳ kheo! Hãy xem ta như kẻ hướng dẫn các ngươi trên đường tu học".
Ðịa vị của Ðức Phật trong Phật Giáo là địa vị của một người dẫn đường trong đám người lạc hướng, hay nói cho khác hơn, địa vị của một lương y trong đám bệnh nhân đau khổ.
Nếu những người lầm đường không đi theo con đường của người dẫn lối thì không khi nào đến đích được, và đó là lỗi của người không đi, chứ không phải là lỗi ở người chỉ đường. Vị lương y cho thuốc uống, nhưng sợ đắng không uống, bệnh không lành, đó chỉ là lỗi ở các con bệnh, chứ không phải lỗi ở lương y.
Nếu Phật Tử không hiểu lời dạy của Phật, không thực hành theo những lời dạy của Ngài, thì Ðức Phật và tam tạng giáo điển của Ngài đối với người kia không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một người Phật Tử chân chính. Thực hành và sống theo lời Phật dạy mới là Phật Tử chân chính vậy.
Căn cứ vào những lời trong kinh Kalama và căn cứ trên lý nhân quả xác thực, chúng ta thấy rằng Ðức Phật không phải là một vị chúa tể toàn năng có thể ban phúc lợi và sự giải thoát cho con người, nếu con người có cầu nguyện Ngài. Lạy Phật, dâng hương lễ Phật, mới là việc làm của kẻ biết ơn. Muốn giải thoát, muốn có an lạc, con người phải biết xem Phật như một ngôi sao dẫn đường, một bậc Thầy sáng suốt.
Hãy nhìn Ðức Phật ở địa vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt ngài ở địa vị một thần linh, một chúa tể. Người Phật Tử nếu có tin tưởng, thì chỉ là tin tưởng ở sự dẫn đạo sáng suốt của bậc giác ngộ, tin tưởng ở khả năng giác ngộ ( Phật Tính ) sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa.
Hiểu như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê tín, ỷ lại vào quyền năng vu vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật đòi hỏi. Người học Phật phải thận trọng, luôn luôn giữ thái độ khách quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh thần khoa học. Trí óc kẻ học Phật phải là một cơ quan gạn lọc vàng sõi, phân biệt rõ ràng, đừng để bị nô lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành kiến dựa vào tình cảm.
Thạc Đức
Theo: Sách: Ðạo Phật Qua Nhận Thức Mới
ĐỨC TIN LÀ GÌ ?
Thiên Ân dịch
(EMTY) - Mỗi một ngày, chúng ta luôn cần đến đức tin. Đức tin để tin tưởng và đón nhận Lời được viết; để nghe những Lời từ Thiên Chúa một cách riêng tư; để vâng phục và thi hành Lời Chúa; để tin rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta những thứ chúng ta cần; để sử dụng những vũ khí thần linh; để tin tưởng Thiên Chúa trong những lúc khó khăn; để phó dâng cuộc sống, kế hoạch của chúng ta và những người chúng ta yêu thương vào trong tay Chúa; để tin rằng những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được đáp trả; để tin có những phép lạ chữa lành; để đối mặt với đủ mọi loại thử thách và ngay cả những hoàn cảnh không thể. Đức tin cho ta rất nhiều thứ!
Nếu chúng ta muốn hoàn thành những kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta, chắc chắn chúng ta phải cần đến đức tin! Đức tin của chúng ta phải mạnh mẽ - và chúng ta không thể đợi đến lúc khẩn thiết mới xây dựng và gia tăng đức tin. Chúng ta phải làm việc ấy ngay hôm nay! Chúng ta sẽ không có được đức tin để chuẩn bị cho tương lai nếu chúng ta không bắt đầu luyện tập và củng cố thêm đức tin của chúng ta ngay từ bây giờ.
Rất nhiều người trong số các bạn có lẽ không cảm thấy mình có được mức độ đức tin mà mình cần, và rất ít người trong chúng ta cảm thấy sẵn sàng “cầu xin lửa từ Trời” trong ngày hôm nay!
Đức tin là gì? Làm thế nào bạn biết được mình có đức tin hay có đủ đức tin? Điều gì gây cản trở đức tin? Làm thế nào bạn tăng cường đức tin của mình? Làm thế nào bạn chắc rằng bạn có được đức tin cho một việc cụ thể nào đó? Làm thế nào bạn củng cố đức tin của mình? Làm thế nào bạn rèn luyện đức tin?
Loạt bài về “Đức Tin” sẽ đưa ra câu trả lời.
Đức tin là gì?
Đức tin không phải là một vấn đề phức tạp. Những hoàn cảnh vốn phức tạp, nhưng bản thân đức tin lại rất đơn giản. Tin chính là biết - biết rằng Thiên Chúa là ai, biết rằng Ngài yêu thương chúng ta và muốn giúp đỡ chúng ta, biết rằng những lời hứa của Ngài là dành cho chính mỗi người chúng ta, biết rằng Ngài đáp trả lời cầu nguyện, biết rằng Ngài sẽ thực hiện cho dù sự hiểu biết ấy trái ngược với những hiểu biết thông thường của chúng ta. Đức tin chính là biết cho dù chúng ta có nhìn thấy gì hoặc nghĩ gì.
Những đứa trẻ có đức tin và chúng chính là mẫu gương tốt về lòng tin. Chúng có lòng tin vào bố mẹ của chúng. Chúng biết nếu chúng khóc, sẽ có ai đó đến; nếu chúng đói, chúng sẽ được cho ăn; nếu chúng cần giúp đỡ, chúng sẽ nhận được sự giúp đỡ. Vì thế, chúng ta nên giống như trẻ thơ, và lòng tin của chúng ta cũng nên giống như lòng tin của trẻ thơ. Chúa Giêsu thường lấy những đứa trẻ làm ví dụ khi giảng dạy, Ngài đã gọi những đứa trẻ đến bên Ngài và bảo những môn đệ của Ngài phải nên giống như chúng, rằng họ nên khiêm tốn và đón nhận tất cả giống như trẻ thơ - tin tưởng, biết chắc và có lòng tin (x. Lc 18,15-17; Mt 18,2-4).
Đức tin thì không giao động hoặc hoài nghi. Nó có thể bị cám dỗ làm như thế, và có thể nó có ý nghĩ làm như thế. Thiên Chúa biết chúng ta không hoàn hảo. Nhưng cuối cùng, đức tin sẽ đứng vững, vì nó tin tưởng vào Chúa, và nó tin chắc rằng Ngài có thể thực hiện những gì Ngài đã hứa (x. Rm 4,21). Đức tin giúp chúng ta tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều vượt hơn tất cả những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới (x. Ep 3,20). Đức tin biết rằng không có gì là quá khó khăn đối với Chúa, và với Ngài, mọi sự đều có thể (x. Mc 10,27; Lc 1,37). Đức tin biết rằng Thiên Chúa trung tín trong Lời Ngài. Đức tin bảo đảm chắc chắc rằng Ngài sẽ thực hiện, bởi vì đức tin ấy biết rõ Ngài và ý định của Ngài.
Khi chúng ta có lòng tin, lòng chúng ta sẽ vững vàng, tin tưởng vào Ngài, và sẽ không bị lay động bởi những tin tức xấu hoặc những xu hướng xấu (x. Tv 112,7). Chúng ta sẽ không có một tâm trí nghi ngờ, nhưng luôn vững tin vào Chúa. Chúng ta không bao giờ mất đi sự tin tưởng và lòng tin của mình, cũng như không hề giao động như sóng biển bị gió đẩy lên giật xuống (x. Dt 10,35; Gc 1,6). Chúng ta biết Thiên Chúa có thể thực hiện, Ngài muốn thực hiện và Ngài sẽ thực hiện. Đó chính là lòng tin, và điều đó làm đẹp lòng Chúa, vì giờ đây chính là kỷ nguyên của lòng tin, của sự tin tưởng và biết rõ, ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấy Thiên Chúa và không còn gì để cậy dựa vào ngoài Lời của Ngài.
Mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho (Rm 12,3), vì thế, chúng ta phải xây dựng đức tin và gia tăng đức tin. Có rất nhiều cách để làm việc đó. Chúng ta có thể cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn đức tin, một trong những món quà của Thần Khí, và Ngài sẽ ban cho (x. 1 Cr 12,9). Chúng ta có thể cầu xin Thiên Chúa gia tăng lòng tin của chúng ta (x. Lc 17,5). Ngài chính là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin của chúng ta (x. Dt 12,2).
Chúng ta cũng có thể gia tăng lòng tin của mình thông qua Lời của Chúa. Đức tin có được là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô (x. Rm 10,17). Chúng ta càng đọc nhiều Lời Ngài trong Kinh Thánh, thì Lời Ngài sẽ càng linh hứng và nuôi dưỡng lòng tin của chúng ta. Lời của Ngài xây dựng lòng tin của chúng ta. Khi chúng ta nghe hoặc đọc những lời đáp trả việc cầu xin, những phép lạ chữa lành, ban ơn hoặc giải thoát hoặc nhiều điều khác nữa, đức tin của chúng ta sẽ được gia tăng. Thậm chí chúng ta sẽ càng tin chắc rằng những gì Thiên Chúa đã làm trong quá khứ, Ngài có thể làm lại và sẽ làm lại, bởi vì Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và mãi đến muôn đời (Dt 13,8).
Những điều gì gây cản trở cho lòng tin?
Tâm trí của chúng ta chính là một trong những rào cản chính đối với lòng tin. Việc này không có nghĩa là Thiên Chúa muốn chúng ta không nên sử dụng tâm trí của mình, nhưng Ngài muốn chúng ta không nên để tâm trí và lý lẽ tự nhiên của chúng ta lừa gạt và gây trở ngại cho lòng tin của chúng ta.
Chúng ta bước đi bằng lòng tin, chứ không phải bởi được nhìn thấy, bởi những lập luận, bởi những phân tích, hoặc bởi những gì hiện diện rõ ràng. Đức tin chính là tin tưởng vào Thiên Chúa và không dựa vào những hiểu biết riêng. Đức tin biết rằng đường lối của chúng ta không phải là đường lối của Thiên Chúa, và tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta (x. Is 55,8-9). Đức tin tin tưởng vào quyền năng của Đức Chúa hơn là sự khôn ngoan của nhân loại. Đức tin thì đui mù trước những hoài nghi, những ngờ vực và những ý nghĩ rằng có thể Thiên Chúa không làm được việc ấy. Đức tin biết, và nếu bị cám dỗ bởi sự hoài nghi hay ngờ vực hay lập luận tự nhiên, nó sẽ gạt tất cả sang một bên và vẫn sẽ tin tưởng. Đức tin luôn tiếp tục tiến lên phía trước mặc cho bất cứ điều gì.
Chúng ta cũng có thể gây cản trở lòng tin nếu chúng ta sử dụng thuật ngữ lòng tin một cách hời hợt, không suy nghĩ hoặc không biết rằng Ngài sẽ thực hiện. Hãy nhớ rằng, đức tin không phải hy vọng, hoặc ao ước, hoặc khao khát. Đức tin là biết một cách chắc chắn và tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa. Vì thế, nếu trong hoàn cảnh nào đó, chúng ta chỉ hơi tin tưởng, hoặc bị dẫn dắt nhiều bởi những khao khát của bản thân hơn là bởi ý định của Chúa, và tự nhủ rằng chúng ta có lòng tin cho điều gì đó hoặc tin rằng Ngài sẽ thực hiện, nhưng lại không có sự tin chắc chắn, như thế chúng ta sẽ có thể sắp té ngã.
Nếu chúng ta không biết điều gì đó xảy ra là ý định của Thiên Chúa, nếu chúng ta không biết liệu chúng ta có đang vâng lời hay không, nếu chúng ta không biết mình có đang dựa vào Lời Ngài và những lời hứa của Ngài hay không, thì chúng ta không nên nói rằng mình có lòng tin cho việc gì đó hoặc rằng chúng ta có lòng tin rằng Ngài sẽ thực hiện. Có lẽ chúng ta hy vọng Thiên Chúa sẽ thực hiện, hoặc nghĩ rằng Ngài sẽ thực hiện, và những gì xảy ra trong quá khứ cho chúng ta thấy rằng Chúa sẽ thực hiện, nhưng điều đó không giống với việc chúng ta tuyên xưng rằng chúng ta tin Ngài sẽ thực hiện. Đức tin không phải là khao khát hay mong muốn hay hy vọng; đức tin chính là biết chắc.
Nếu chúng ta dùng cụm từ “tôi có lòng tin” một cách hời hợt, không chắc chắn, và khi niềm hy vọng hoặc điều ao ước hoặc khao khát của chúng ta không thành hiện thực, chúng ta sẽ dễ dàng hoài nghi và ngờ vực. Chúng ta có thể nghi ngờ liệu Thiên Chúa có thể thực hiện hay không, liệu Ngài có thể hoàn thành những lời hứa hay không. Đừng nao núng, hãy kiên tâm bền chí cho đến cùng dẫu có thế nào. Hoặc chúng ta nên kiểm tra lại với Chúa xem liệu việc đáp ứng yêu cầu của chúng ta có phải là ý của Ngài không.
Nếu lòng khao khát của chúng ta không được đáp ứng, thì chúng ta không nên trách móc bản thân vì đã không có lòng tin cho việc ấy. Hành động ấy có thể làm sứt mẻ lòng tin của chúng ta. Có thể chúng ta không biết rằng sự việc nào đó không xảy ra chính là ý định của Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta đã luyện tập sự khao khát và ước muốn của bản thân nhiều hơn lòng tin của chúng ta. Vì thế, đừng để lòng tin của chúng ta phải nhận sự khiển trách khi ước muốn của chúng ta không thành hiện thực.
Vâng phục cũng là một thành phần quan trọng trong việc rèn luyện lòng tin, vì thế nếu chúng ta không vâng phục Thiên Chúa và Lời của Ngài, thì chúng ta không thể có được lòng tin mạnh mẽ. Hãy nhớ, đức tin và đức vâng phục phải có trước tiên, và rồi Thiên Chúa sẽ đáp trả lời cầu nguyện. Ví dụ, nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta điều gì đó nhưng lại không làm tất cả những gì Ngài bảo chúng ta làm, hoặc thậm chí làm những điều Ngài bảo chúng ta đừng làm, như thế, chúng ta không thể cầu xin với một lòng tin mạnh mẽ hoặc không thể được bảo đảm sẽ có được câu trả lời từ Chúa. Thiên Chúa có lòng thương xót, và có quyền năng ban mọi ơn lành, nhưng Ngài sẽ không làm nếu chúng ta không vâng phục.
Đôi khi việc thiếu đức vâng lời sẽ dẫn đến kết quả là thiếu sự hoà hợp. Ví dụ, có thể Thiên Chúa hành động đàng sau hậu trường để thực hiện thông qua một người nào đó, hoặc theo một cách thức mới, và mở ra một cánh cửa để ban chúng ta điều gì đó chúng ta cần - nhưng chúng ta lại không bước vào. Có thể chúng ta đã bỏ qua việc kiểm tra với Ngài để nói chuyện với ai đó, hỏi ai đó và nhờ họ giúp đỡ…
Ngay cả khi ý định của Thiên Chúa muốn ban điều gì đó cho chúng ta, Ngài vẫn không thể làm được nếu chúng ta không chú ý đến tiếng nói của Ngài và không nhạy cảm với nó; hoặc chúng ta quyết định không thích cánh cửa được mở ra cho chúng ta; hoặc chúng ta cho rằng mình đã thử cách ấy trong quá khứ, và vì nó đã không có tác dụng, nên lần này nó cũng sẽ như thế. Điều này chính là mất đi sự hoà hợp chứ không hẳn là mất đi lòng tin, nhưng kết quả thì như nhau.
Sự kiêu ngạo của chúng ta sẽ ăn mòn dần lòng tin và làm chậm đi quá trình gia tăng của lòng tin, bởi vì chúng ta dựa vào sự tự tin của bản thân hơn là dựa vào Thiên Chúa và sức mạnh của Ngài. Vì thế, chúng ta kết luận rằng những kết quả cuối cùng của nỗ lực giải quyết vấn đề chẳng liên quan gì nhiều đến lòng tin vào Thiên Chúa, nhưng là do khả năng và sự khéo léo của bản thân. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy của đức tin trong huyết mạch của chúng ta, bởi vì huyết mạch tinh thần của chúng ta bị tắc nghẽn bởi những việc làm của bản thân thay vì là được lưu thông bởi dòng chảy của Thần Khí bên trong chúng ta.
Việc thiếu đi sự quyết tâm đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện cũng cản trở việc phát triển lòng tin của chúng ta. Nếu chúng ta không cầu nguyện, Thiên Chúa bị giới hạn trong thế giới tâm linh, điều đó thường có nghĩa là những vấn đề mà chúng ta đang đối mặt có thể kéo dài không biết đến bao giờ. Khi điều ấy xảy ra, với tâm trí trần tục, chúng ta kết luận rằng những lời hứa Thiên Chúa dành cho chúng ta thật sự không có tác dụng gì cả. Nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện với lòng nhiệt thành và bằng lòng tin và sự tha thiết - những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lời cầu nguyện - thì làm sao chúng ta có thể trông đợi được nhìn thấy những kết quả có tác động mạnh mẽ.
Lời cầu nguyện đòi hỏi phải có lòng tin. Chúng ta phải tin tưởng rằng lời cầu nguyện thật sự có tác dụng, và đó không phải chỉ là một nghi thức trần tục để thể hiện việc sùng đạo. Chúng ta phải tin tưởng hết lòng rằng khi cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ thay mình hành động, cho dù là cần mất thời gian trước khi chúng ta nhìn thấy hết những kết quả. Lòng tin của chúng ta không được giao động chỉ bởi vì câu trả lời lâu đến. Và bởi vì lòng tin của chúng ta không hoài nghi, vẫn tin tưởng, nên khi Thiên Chúa ban câu trả lời, lòng tin của chúng ta sẽ được gia tăng và được củng cố. Nhưng nếu không có một mục đích mạnh mẽ và lòng tin trong lời cầu nguyện, đức tin của chúng ta sẽ bỏ qua một cơ hội được phát triển thông qua việc phó thác để Thiên Chúa thực hiện, và hoàn toàn tin tưởng và trông đợi rằng Ngài sẽ làm phép lạ theo cách mà Ngài biết là tốt nhất.
Việc thiếu lòng tin tạo ra mảnh đất màu mỡ để những hạt hoài nghi nảy mầm, việc thiếu lòng tin đối với những lời hứa của Thiên Chúa nếu không được chế ngự và nếu để cho việc này kéo dài, cuối cùng nó có thể dẫn đến việc không tin tưởng vào Ngài.
Phạm tội mà không xưng thú, hoặc phạm tội do không biết chế ngự, cũng có thể cản trở lòng tin của chúng ta. Trong những trường hợp như thế, rất khó để chúng ta có lòng tin vào Thiên Chúa và Lời của Ngài nếu chúng ta không biết mình đang sai và không hoàn toàn vâng lời Ngài. Việc ấy có thể sẽ ăn mòn lòng tin của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự tin đến trước ngai Thiên Chúa để trông chờ câu trả lời (x. Dt 4,16). Thay vào đó, chúng ta lại vừa rón rén đến trước Ngài, hy vọng Ngài sẽ trả lời, nhưng lại vừa mang một cảm giác tội lỗi về lời cầu xin của mình khi chúng ta nhận ra rằng mình đã không tuân theo những yêu cầu đòi hỏi để có thể nhận được những ân sủng của Ngài và hoa trái của sự vâng phục.
Việc thiếu đức tin có những nguyên nhân khác nhau đối với từng cá nhân. Một số người do tất cả những nguyên nhân nêu ra ở trên, số khác thì do những nguyên nhân riêng tư, có thể là do những gánh nặng trong quá khứ đè nặng trên họ. Đó là lý do tại sao việc tìm kiếm Thiên Chúa thường xuyên để tìm ra nguyên nhân hoặc trở ngại trong việc gia tăng lòng tin là một việc rất quan trọng. Câu trả lời có thể không luôn luôn giống nhau - đó là lý do tại sao câu hỏi ấy là câu hỏi mà chúng ta phải hỏi Thiên Chúa một cách thường xuyên.