

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Suy ngẫm mùa tu Hạ Chí
-
Theo Larousse, "thiền" có nghĩa là "trải qua sự quán tưởng sâu sắc, khảo sát, suy tư sâu sắc." Theo ...
-
Lời dạy của đức Chí Tôn về sứ mạng của Giáo Tông Đại Đạo
-
Ngài Bác Nhã Thiền Sư trong bài Chánh Pháp Nhãn Tạng – Niết Bàn Diệu Tâm đã cho chúng ta ...
-
Con đường đi đến chỗ trực nhận cái tâm tuy muôn nghìn lối nẻo, song tựu trung lại chỉ có ...
-
III. NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Hội ý qui luật “ Châu ...
-
Có thể nói "Sứ mạng Nho tông chuyển thế" trong giáo lý Cao Đài là một ý niệm không đơn ...
-
Đối với nhân loại, di sản là những gì do lịch sử tiến hóa của loài người để lại, có ...
-
Biết tiềm thức còn chôn đủ nghiệp, Khi móng lên mau kịp ngăn phòng; Ma ngoài hiệp với ma trong, Ngơ đi chớ ...
-
Quốc sư Vạn Hạnh và PG thời Lý đóng góp vào sự nghiệp hộ quốc an dân TT. Thích Quảng Tùng Phật ...
-
Đức Lý Đại Tiên Trưởng Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dạy rằng sứ mạng của ...
-
THÁNH GIÁO tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974)
Sưu tầm
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 23/02/2010
Nguyễn Trãi

Ông đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để lật đổ ách thống trị của nhà Minh, là quân sư đắc lực của Lê Lợi (vua Lê Thái Tổ sau này) trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho Lê Lợi.
Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Kiếp Bạc, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Toàn thể gia đình ông bị giết (tru di tam tộc) năm 1442 sau khi vua Lê Thái Tông chết đột ngột ở Lệ Chi Viên (Gia Lương, Bắc Ninh ngày nay) do có vợ thứ của ông là Nguyễn Thị Lộ theo hầu.
Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu giải oan cho ông. Năm 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới.
Các tác phẩm văn thơ
Ông trước tác rất nhiều, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi tập.
Được biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm (1417–1427). Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của đất nước ta cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu như:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
(trích theo bản dịch của Ngô Tất Tố)
Bình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".
Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí.
Tác phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác đáng.