

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Một mùa Trung Thu nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Kể từ khi Đức Thượng Đế giáng trần ...
-
Sống tự nhiên không phải sống xa rời xã hội nhân lọai; không chỉ uống nước lã, thở khí trời ...
-
Mỗi độ Xuân về, thiên nhiên trào dâng sức sống, vạn vật chuyển mình khởi đầu lại một chu kỳ ...
-
1) Trươc các tầng trời Ngài rạng rỡ uy nghi, Rộng lớn vô cùng và tế vi khôn tả Kìa, áo khoác ...
-
Nếu có dịp chứng kiến đại lễ Khai Minh Đại Đạo vào năm Bính Dần 1926, có lẽ đại đa ...
-
Sen Trắng Hàng năm cứ mỗi độ Thu về, người tín hữu Cao Đài nhất là phái nữ rộn ràng chuẩn ...
-
Đức Tin /
Người ta thường gọi đức tin là giác quan thứ sáu. Nhờ giác quan ta có thể nghe thấy, nếm, ...
-
CHƯƠNG THỨ NHẤT ...
-
Đức Ngô Minh Chiêu là vị đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Thượng Đế; đứng đầu một nhánh ...
-
Kể từ khi Đức Thượng Đế ban hồng ân khai mở Đại ĐạoTam Kỳ Phổ Độ, chọn nước Việt Nam ...
-
Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa: văn hóa Trung Quốc; ...
-
Hai anh A và B ở chung trong một nhà trọ. Anh A nói với anh B : Anh tức là ...
Sưu tầm
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 23/02/2010
Thần thể

Quan điểm Phật giáo
Theo Phật giáo, Thần thể là hiện thân của những vị Bồ Tát (sa. bodhisattva) siêu việt, nói chung là tất cả những vị được tôn xưng trong Đại thừa Phật giáo. Đặc biệt trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, người ta thường thấy hai cách trình bày hiện thân của một vị, đó là dạng phẫn nộ (sa. krodha) và tịch tĩnh (sa. śānta). Ví dụ như Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara) dưới dạng tịch tịnh và Ma-ha-ca-la (sa. mahākāla) trong trạng thái phẫn nộ. Trong những Thành tựu pháp (sa. sādhana), hiện thân của một Thần thể dưới hai dạng nêu trên là biểu tượng của hai loại Chủng tử tương ưng trong tâm của người tu tập, đó là thanh tịnh và hung hăng, phá hoại.
Như vị Thiền sư hiện đại người Tây Tạng là Chög-yam Trung-pa nói, "phẫn nộ" ở đây không nên hiểu là một tâm trạng, cảm xúc phụ thuộc vào cái tự ngã và "phá hoại" "hung hăng" ở đây cũng không nên hiểu theo lẽ "bất thiện" thông thường. Những năng lượng tiềm tàng được biểu hiện qua các vị phẫn nộ cũng rất có ích và cần thiết trong quá trình tu chứng như những vị tịch tĩnh. Cái được tiêu huỷ, phá hoại ở đây chính là những ảo ảnh gây chướng ngại trên con đường đạt giải thoát và chủ thể đang sợ hãi, cảm thấy bị công kích chính là cái ngã – đúng hơn là cái huyễn ngã chưa từng có thật – của hành giả. Sự tôn sùng các vị dưới hai dạng tại Tây Tạng – không phân biệt tốt xấu theo lẽ thường – cũng thường gây sự hiểu lầm rằng, Phật tử ở đây "tôn thờ quỷ thần ngoại đạo"
Song song với Phật gia (sa. buddhakula), Kim cương thừa (sa. vajrayāna) cũng thừa nhận và tôn sùng "100 gia đình của chư vị hộ thần cao quý tịch tịnh và phẫn nộ." 100 vị này tường được nhắc đến trong Tử thư và là một phần của giáo lí Ma-ha du-già (sa. mahāyoga) được Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) Đại sư truyền sang Tây Tạng. Các vị Hộ thần này được xếp vào hai Mạn-đồ-la và hai Mạn-đồ-la này được xem như là sự mở rộng của Phật gia – vốn đã bao gồm năm vị Phật (Ngũ Như Lai).
Quan điểm Ấn Độ giáo
Theo Ấn Độ giáo, Thần thể là một vị thần được một đền thờ, một gia đình hoặc một nhóm tín ngưỡng chọn lựa, hoặc là một vị thần được chọn bởi một người có một mối tương quan đặc biệt với vị này. Đạo sư (sa. guru) thường truyền Thần thể cho một hành giả cùng với một chân ngôn đặc biệt. Đạo sư là người biết được những khía cạnh Thần thể có thể giúp hành giả. Dạng tôn xưng này thuộc về phép tu Tín ngưỡng du-già (sa. bhaktiyoga) và nó có thể có đối tượng là một cao nhân đắc đạo, hoặc một đấng giáng thế tối cao (sa. avatāra). Hình dạng của Thần thể gọi theo tiếng Phạn là Lakṣya, có thể hiểu là "có tướng".
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Hàn Quốc |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán