III. NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Hội ý qui luật “ Châu nhi phục thỉ” của cơ chế sinh thành trong vũ trụ qui luận “huờn nguyên chơn thần” của cuộc tiến hóa tâm linh cùng với phương định “chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt” của Quyền pháp “ chúng ta có nguyên lý Đại Thừa trong Đạo pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nguyên lý Đại Thừa được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thực hiện qua tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” trên phương diện cương lĩnh của giáo thuyết và qua sứ mạng phụng hành Thiên Đạo cho công cuộc giải thoát phổ độ nhân sinh.
Trong khi đi tìm một giáo lý thuần nhất về vũ trụ và con người qua các tôn giáo chúng ta đã được thuyết minh về phạm trù đại vũ trụ và phạm trù tiểu vũ trụ. Cái trước là một thực tại nhất thể bao dung cả vật chất lẫn tâm linh trong đó mọi biến hóa sanh thành của vạn vật đều được qui định bất biến bởi một bản thể duy nhất đồng nhất, một động lực duy nhất tuyệt đối và một qui trình nhất định. Cái sau là thực tại đồng nhất với cái trước đang vận động trong một qui phạm giới hạn nhưng đặc điểm của nó là vẫn góp phần vào cái trước một cách tự nhiên vừa có khả năng phát triển đến cũng cực một khi đạt đến ý thức tự chủ của một tiểu vũ trụ. Cái ý thức tự chủ đó là sự “nhất quán” được đạo lý trong vũ trụ vạn vật. Cao Đài gọi là Đắc Nhất. Đắc Nhất là đứng ở vị trí của chính Trung và chấp hành được Quyền Pháp.
Tóm tắt:Đạo Cao Đài là tôn giáo nội sinh ra đời tại vùng đất Nam Bộ vào năm 1926 với chủ trương phục hồi nhân bản, tạo thế nhân hòa để xây dựng xã hội an bình thánh đức và tu tánh luyện mạng trên tinh thần vô chấp, vô tướng để hòa đồng cùng bản thể của trời đất. Bài viết trình bày những giá trị văn hóa đạo đức của đạo Cao Đài và những đóng góp của văn hóa Cao Đài vào văn hóa dân tộc Việt Nam, tổng quan tình hình hoạt động của tôn giáo Cao Đài trong gần 100 năm sau khi khai đạo và nêu lên xu hướng phát triển mới của đạo Cao Đài trong tương lai. Chúng tôi rất mong có sự đồng hành hỗ trợ từ các cấp chính quyền trong việcphổ biến và nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài, thúc đẩy sự thống nhất tinh thần và hợp tác giữa các chi phái Cao Đài, trong việc mở rộng các hoạt động hướng đến cộng đồng xã hội, trong việc phổ biến đạo Cao Đài đến các dân tộc khác nhau trong đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam và các nước trên thế giới, nhằm góp phần lan tỏa văn hóa đạo đức và văn hóa dân tộc Việt Nam ở khắp nơi.
Hãy xem ta vốn là ai • Những người tha thiết hằng ngày ước mơ, • Thực hiện điều ấy bây giờ, • Vì ta tin tưởng ước mơ sẽ thành • Tất cả là Một quyết tâm,
Lịch sử của tư tưởng nhân loại là một hành trình tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi muôn đời về sự hiện hữu của con người: Ta là gì? Ta là ai? Ta từ đâu đến thế giới này? Ta đến thế giới này để làm gì? Ta sẽ đi về đâu, sau khi từ giã thế giới này?
Lịch sử của tư tưởng nhân loại là một hành trình tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi muôn đời về sự hiện hữu của con người: Ta là gì? Ta là ai? Ta từ đâu đến thế giới này? Ta đến thế giới này để làm gì? Ta sẽ đi về đâu, sau khi từ giã thế giới này? Theo giáo lý Đại Đạo, những câu hỏi này chỉ có thể tìm được lời giải đáp trong đạo lý, nhất là về niềm tin và hành động của chính con người.
Mỗi độ Xuân về, thiên nhiên trào dâng sức sống, vạn vật chuyển mình khởi đầu lại một chu kỳ tiến hóa mới. Con người cũng cảm nhận những đổi thay trong bản thân và tâm hồn... Ngàn hoa đua nở tô điểm sắc Xuân, cây xanh kết trái hiến dâng cho khách du Xuân thưởng ngoạn... Lòng người rộng mở, trao nhau câu chúc tụng, tặng nhau quà Xuân để tình tương thân thêm nồng ấm. Mặc cho dòng đời biến động, trải lắm buồn vui sân hận đua chen... Cứ đúng mùa hoa đào hoa mai nở, Xuân vẫn đã bao lần nhắc lại tình chung giữa trời đất – vạn vật – con người.
Dòng sông uốn khúc qua bao thác ghềnh, đón nhận mọi nguồn nước đục trong, nhưng không bao giờ dừng lại. Lúc lớn, lúc ròng, sông cứ nhịp nhàng nuôi dưỡng cỏ cây người vật xinh tươi. Thời gian chứa đựng vô vàn biến đổi của của cuộc đời, hưng phế thạnh suy, buồn vui sướng khổ. . .Thế nên có Xuân vẫn có Hạ Thu Đông nối tiếp, thì đời người vẫn có thăng trầm là lẽ tự nhiên. Mừng Xuân không thể giữ Xuân ở lại, hãy đón Hè về cho sen nở, Thu sang cho cúc vàng tươi, cũng không buồn đào mai trơ cành vào Đông giá rét. Vì cuối Đông, Xuân sẽ đến !
Chư hiền đệ hiền muội ! Bần Đạo vừa mới nói đến hướng về mục đích tối cao, chư đệ muội nghe qua có thấy lòng thích thú khi trỗi bước dậm dài thiên lý, có âm vang hòa nhịp đồng hành, hay thấy lòng phân vân ngăn ngại ? Mục đích cao thượng ấy xa hay gần, thực thể hay trừu tượng mông lung, cái thế an bài vĩnh cửu hay thế tựa tạm thời trước sự vật quá đổi thay. Có nghe được tiếng nói của lòng mới thấy mình có thực hay không có. Nếu đã thật có, mình biết mình, thì sứ mạng Thiên ân trong Tam Kỳ Phổ Độ này mới có thật ở chính mình.
HỘI THOẠI TỰ TRI GIẢ MINH Thời Mạt Pháp : Trước diễn biến bất nhân vô đạo, sức phá tán tâm hồn hết sức mạnh bạo, lòng người chính trực làm sao vô cảm? Đời thì đối trị bằng nhẫn nhục, Đạo: quay vào thanh tịnh làm phương cách cùng cố nội lực tự hữu. Nếu chưa đủ sức chiu đựng bền vững, phải cần đến những liều “vac -xin “ để tạo kháng thể nội tâm. Đạo pháp chân tu chính là liều “vac-xin” ấy. Nếu chỉ đơn thuần nói nhẫn nhục hay thanh tịnh có phải là giải pháp tiêu cực chăng?
Phương tiện kỹ thuật càng tinh xảo, con người càng dễ đi đến chỗ dối mình, dối người, hại mình, hại người, một cách tự nhiên, đến độ lòng chẳng có chút cắn rứt nào khi đã lỡ tạo ra những hậu quả xấu, làm khổ đau, thậm chí tổn hại đến sinh mệnh của kẻ khác.
" Nền Đạo lập nên là nhờ có lòng đạo đức và tánh khiêm cung của mỗi môn đệ của Đức Từ Bi. Nếu đã vào nẻo đạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Đạo chẳng qua là một trường ngôn luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng đáng đặng?” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I, 29.5.27)
