Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Thuở ấy, ở làng Chử Xá (thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay) có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con thương mến nhau rất thắm thiết. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố.
-
Vào đầu thế kỷ 20, trong những tháng ngày đất nước Việt Nam còn đắm chìm trong điêu linh khói lửa do bởi nạn ngoại xâm, một sự kiện hy hữu đã xảy ra trên mảnh đất Việt nhỏ bé, dân tộc Việt đón nhận một ân phước vô biên, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, vị Chúa tể muôn loài từ xưa đến nay chỉ có trong huyền thoại tâm tưởng của con người đã thị hiện cứu rỗi loài người nơi cõi trần gian, nói chuyện với con người bằng ngôn ngữ của người Việt Nam...
-
Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu.
Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên, vị phật, trường sanh bất lão.
Hơn nữa, các em nhớ : liều thuốc ngủ không làm cho bịnh nhơn ngũ yên lành vì bịnh tâm tư; đạo không đắc quả cho người trường chay tuyệt dục là do tâm động.
Các em hiểu chăng ? Cười…
-
. . .Trước kia ta nhìn mẹ nhưng lại chú tâm vào việc khác ngoài đời. Nay thì khi làm việc khác ngoài đời, ta hãy để một góc nhìn về mẹ. . .
-
Thái tử Charles gắn huân chương MBE cho ông Vũ Khánh Thành vào ngày 26-5 tại điện Buckingham
Hôm 26-5, trong một buổi lễ long trọng tại điện Buckingham (Anh), Thái tử Charles đã trao tặng Huân chương MBE cho ông Vũ Khánh Thành với những giúp đỡ của ông đối với cộng đồng người Việt Nam tại Vương Quốc Anh trong suốt 25 năm qua.
-
Trong văn học Trung Quốc từ xưa đã xuất hiện hai nhân vật kỳ bí, hai triết gia đặc biệt: đó là Lão Tử và Trang Tử. Người xưa không ai biết hai Ngài là học trò của ai, và hành đạo ra sao. Đến khi nhị vị tách mình ra đi về cõi vĩnh hằng, để lại cho đời tác phẩm của mình thì đời sau mới biết tông chỉ và chủ trương của hai Ngài.
-
“Khi các con đã thật lòng bác ái, các con không còn thấy người sang kẻ hèn, người dại kẻ khôn, người uy quyền kẻ yếu đuối, người thân kẻ sơ. Đã không chia cách như vậy, lòng các con là một cõi bồ đề, một cõi niết bàn, một Cung Diêu Trì và chính con sẽ ở trong Thượng Đế.” ./.
-
"Mẹ ước mong sao lòng các con cũng phải chí thành vô hạn mới có thể thấu hiểu được lý nhiệm mầu siêu việt và hoạch định một tương lai đạo đức cứu cánh toàn linh..."
-
Đạo lý chính là sự bình đẳng giữa người và người, giữa dân tộc nầy với dân tộc khác. Nên các bậc giáo tổ, thánh nhân lập đạo đều nhắm mục đích dạy nguời đời thực hiện đạo lý ấy. Đó là Bình đẳng quan của Phật, Tề vật luận của Lão Trang, Trung đạo của Nho, mà thời Tam Kỳ Phổ độ nầy Cao Đài dung hợp trong đường lối "Đại đồng công dụng".
-
Tác Giả: Mortimer J.Adler
Dịch Giả: Hải Nhi
Số Trang: 332 trang
Nhà xuất bản: Lao Động - Xã Hội
-
Một mùa Trung Thu nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Kể từ khi Đức Thượng Đế giáng trần trên ngọn linh cơ khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cách đây gần một thế kỷ, lễ hội Trung Thu đêm rằm tháng tám không chỉ là một nét văn hoá mang tính truyền thống dân tộc, mà đặc biệt với những người áo trắng Cao Đài, còn có một ý nghĩa thiêng liêng, ghi dấu ngày Mẹ Linh Hồn của vạn hữu lâm phàm khai mở Hội Yến Bàn Đào nơi cõi thế gian giữa thời mạt pháp, thắp lên ngọn đuốc soi sáng đêm trường tăm tối của buổi Hạ nguơn, hầu cứu nhân loại thoát trường sát kiếp của cơ cộng nghiệp.
Hơn 80 năm qua, mùa Trung Thu đến với người tín đồ Cao Đài bằng tất cả sự hân hoan ngưỡng vọng và tấm lòng thiết tha hướng về Mẹ Linh hồn vạn hữu dưới danh xưng Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu trong niềm tin đón nhận được dòng ân điển thiêng liêng của Tình Vô Cực qua lễ Hội Yến Bàn Đào để tâm linh thêm sáng suốt, nghị lực thêm vững vàng hầu vượt thoát khỏi muôn trùng thử thách, chướng ngại của chốn trần ai trên dặm đường thiên lý trở lại bến khởi nguyên.
-
Người tín đồ Cao Đài hàng ngày bắt đầu thời cúng của mình bằng bài kinh Niệm Hương với hai câu đầu: “Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra…”, sau đó tụng đến bài Khai Kinh: “Biển trần khổ vơi vơi trời nước…”.
Có thể nói, tất cả tín đồ Cao Đài đều thuộc nằm lòng hai bài kinh này, nhưng cũng có thể
nói, ít người biết rằng hai bài kinh trên có gốc từ chi đạo Minh Lý (Tam Tông Miếu)1
