Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Phật giáo có một lịch sử trên hai ngàn năm, truyền bá đến rất nhiều nước trên thế giới. Ngoài năm xứ của Ấn Độ, Phật giáo đã gieo rắc rất nhiều ảnh hưởng ở các nơi. Qua mỗi thời đại, Phật giáo tùy theo tình trạng xã hội của mỗi địa phương mà có ít nhiều biến thái về bản sắc. Vì thế, muốn nói đến điểm xuất phát của đạo Phật, không thể không đi sâu vào bối cảnh lịch sử của Ấn Độ thời bấy giờ.
-
Trong dân gian không biết tự bao giờ đã hình thành câu ca dao : “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” để nhắc nhở nhau ngày lễ tưởng niệm Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo ngày 20.8 âm lịch, và kỷ niệm Mẹ là Đức Liễu Hạnh Thánh Mẫu vào ngày 3.3.Âm lịch.
Hàng năm, lễ Vía Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tổ chức trang trọng tại tất cả những nơi nào có đền thờ Ngài, trải dài trên khắp đất nước Việt từ Bắc chí Nam nhưng đặc biệt nhất, tại Phủ Giầy, tên gọi vùng đất tương truyền là quê hương Ngài, lễ hội được tổ chức trọng thể kéo dài từ mồng 1 tháng 3 cho đến hết mồng 10 tháng 3 gọi là Hội Phủ Giầy hay Hội Thánh Mẫu Vân Hương. Đây là một trong những lễ hội nổi tiếng của cả nước. Hội mở linh đình nhộn nhịp thu hút một số lượng dân chúng đông đảo, nhất là dân ở mấy tỉnh Nam Định, Ninh Bình , Hà Nam, Thanh Hóa và Hà Nội. Phủ Giầy, là địa danh của vùng đất trong đó có quần thể kiến trúc gồm các đền, phủ và lăng mẫu thờ Mẫu Liễu thuộc xã Kim Thái, (trước là An Thái), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, là nơi mà trong phạm vi một xã có mật độ di tích dày đặc. Ngoài Phủ Tiên Hương còn gọi là Phủ Chính (xưa kia, nơi này được qui định làm địa điểm tổ chức lễ hội), Phủ Vân Cát (còn gọi là đền Trình bởi trước khi sang lễ ở Phủ Chính, phải vào lễ trình diện ở Phủ Vân) thờ Mẫu Liễu Hạnh và Lăng Mộ của Ngài còn có một số đền chùa khác. Danh xưng Vân Hương Thánh Mẫu do ghép hai tên Vân Cát và Tiên Hương.
-
Yếu tố quyết định của hạnh là tâm.
Sau khi nhập môn, chúng ta phải có ngôn ngữ, cử chỉ khác hơn hôm trước, Ơn Trên dạy phải "khác hơn người thế tục". Đó là tác phong đạo hạnh.
Hạnh là sự thể hiện của tâm, đức bên trong hành giả qua ánh mắt, khuôn mặt, lời nói, hành động. Đức Cao Triều Tiền Bối dạy "Tâm đức là bát nhã thoàn đưa người qua bĩ ngạn. Tác phong đạo hạnh gây sự cảm mến đến nhơn tâm giác ngộ."[1]
Đức Mẹ dạy:
"Tiền nhân xưa chỉ đoan sửa tánh,
Mà kết chung nhập thánh siêu phàm;
Nay con đạo hạnh vững cầm,
Dày công tu sửa sẽ làm Phật Tiên."[2]
[1] CQPTGL, 11-02 nhuần Ất Sửu.
[2] CQPTGL, 03-8 Mậu Ngọ.
-
1. * Ngọc Trì là ai?
Trong
việc hành công, miệng con người không gọi là khẩu mà gọi là Ngọc Trì
(ao ngọc). Trong miệng có hai suối nước là Ngọc Tuyền, xuất phát cam lồ
là Ngọc dịch, đây là Tiên dược của hành giả chỉ có khi thanh tịnh trong
thời thiền.
Cơ thể con người
có một cấu tạo đặc biệt, mắt của chúng ta cho được mà miệng không cho
được. Cho nên miệng là ta, ta là miệng. Ngọc Trì là chính chúng ta trên
đường tu, tuy hai mà một. Ngọc Trì lên đường tu là cách nói hình tượng
nhân cách của chủ đề CẨN NGÔN.
Đạo Trưởng Huệ
Lương có kể chuyện về thời Khai Đạo tại Thánh Thất Cầu Kho. Trong một
thời cúng, các Đấng Tiền Khai đang đọc kinh trên bửu điện thì dưới trù
phòng có tiếng cải cọ lớn tiếng. Tiền Bối Đòan Văn Bản bước ra và xuống
bếp khuyên giải "Xin chị để cho các anh lớn dâng lễ xong rồi có chuyện
gì thì nhờ phân xử". Bà tiếp tục hét "không chờ gì hết!", rồi tự nhiên
nín luôn.
Mỗi
ngày người ta thấy bà đánh một dấu phấn ở gốc cột. Đủ ba năm bà mua một
hủ tương đến gặp Ngài Đòan Văn Bản, chỉ vào hủ tương rồi chỉ ra hướng
Vũng Tàu. Ngài Đòan Văn Bản hỏi "chị muốn chúng tôi đưa chị ra Long Hải
gặp anh lớn Nguyễn Ngọc Tương phải không? Bà gật đầu.
Ngài
Đòan Văn Bản mua vé xe đò, đưa bà ra quận Đất Đỏ vào gặp Ngài Nguyễn
Ngọc Tương (lúc bấy giờ Ngài đang làm chủ quận Đất Đỏ). Sau khi nghe tự
sự Đức Nguyễn Ngọc Tương mời Ngài Đòan Văn Bản và đương sự cùng lên
cúng thời ngọ. Trước khi xã đàn Đức Nguyễn Ngọc Tương lấy nước âm
dương, cầu nguyện Ơn Trên và đưa cho bà uống, ngay tức thì bà nói ngay
"con xin cám ơn Ơn Trên tha tội, từ đây con xin cẩn ngôn, cẩn hạnh".
Chúng ta tu, miệng chúng ta phải tu theo, đó là Ngọc Trì lên đường tu.
-
Luật lệ
Đức Lý Đại Tiên Trưởng
Lý Thái Bạch, Lão mừng chư độ hoằng khai Đại Đạo, đều phải đồng một trường hợp, một qui tắc luật lệ, thì sự tấn hóa ấy mới hoàn toàn, nhân sanh mới hết phân vân «bản ngã».[1]
-
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao Đài giáo ra đời từ năm 1925-1926, cho đến nay đã trải qua gần 2/3 thế kỷ, thời gian cũng gọi là dài so với đời sống con người, nhưng so với những tôn giáo khác, Cao Đài còn rất trẻ. Từ đó đến nay, không kể đến những thăng trầm của cơ Đạo, tôn giáo Cao Đài đã phải chịu rất nhiều sự chê bai, chỉ trích, ngộ nhận của đủ mọi giới trong xã hội không kể lương hay giáo. Nhưng theo thời gian, với con số từ 500 000 tín đồ sau vài năm Đạo khai, lên đến trên 1 triệu tín đồ vào năm 1937 và đến nay hơn 5 triệu, Cao Đài giáo đã tự khẳng định được vị thế của mình trong vai trò một tôn giáo với đầy đủ ý nghĩa và quyền pháp.
-
Cận kề di hài con thơ tròn 12 tuổi, thân phụ Ahmad vốn là thợ cơ khí dằn vặt: thù hận hay tha thứ? Ông nói với nhà báo Stephen Farrell (The Times): "Không ai khuyên tôi hành động ra sao...
-
Xưa nay biết bao học giả đã gắng công chú giải kinh điển Trung y. Những chứng cứ khảo cổ mới được phát hiện gần đây và các công trình nghiên cứu về những ký lục của các y sư riêng biệt về các y án đã tiết lộ cho thấy một xu hướng canh tân và đa dạng trong việc thực hành Trung y...
-
Thân gởi tất cả anh chị em toàn Cơ Quan,
Cơ Quan vừa trải qua một thử thách hết sức nặng nề có thể ảnh hường đến sự tồn vong của Sứ mạng Cơ Quan PTTGLDD, lẫn cơ đạo chung.
Trước nguy cơ đó, nếu chúng ta không bình tỉnh tìm ra giải pháp thích đáng mà quá dao động nội tâm, vô tình hay cố ý làm cho tập thể/cá nhân hoang mang, phát sinh những động thái nong nỗi, hậu quả nội tình trở nên phức tạp, CQ sẽ như con thuyền không bến (!)
Nếu phải bó tay, thì từ trên xuống dưới đều phải thọ tội duới chân Thầy và Đức Giáo Tông, và không còn mặt mũi nào nhìn lại đàn em đang trông chờ sự dẫn dắt trên đường hoằng giáo độ nhân như bài nguyện CQ mà tất cả luôn tâm niệm.
-
THI
Đạo tâm tại hề Phật tại tâm,
Vọng cầu bôn ngoại thị hôn trầm,
Nhơn nhơn tự hữu Như Lai tánh,
Tánh đắc Như Lai pháp diệu thâm.
Vạn Hạnh Thiền Sư, khánh hỉ, khánh hỉ chư Thiên ân sứ mạng, chư đạo tâm đạo hữu.
-
Điểm nhấn trong Chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là Chương trình Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội được tổ chức trong 10 ngày (từ ngày 1 - 10/10/2010).
-
Theo Kinh A Hàm, khi đản sanh, Đức Phật đã nói một bài kệ bốn câu như sau:
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử
Trên trời dưới đất
Chỉ ta tôn nhất
Tất cả thế gian
Sanh già bệnh chết
