Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Ca dao Việt Nam có câu: “Tu đâu cho bằng
tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.”
Kinh Tứ Thập Nhị Chương có dạy: “…Cha mẹ
là vị Thần minh cao nhất trong các Thần minh.”
Kinh Đại Tập có đoạn chép: “ Gặp thời không
có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật.”
Qua đó, chúng ta thấy rằng đối với con cái, cha
mẹ phải được tôn kính như một vị Thần minh
cao nhất, vì cha mẹ không chỉ tạo cho con mảnh
hình hài mà còn nuôi dưỡng con thành người.
Cha mẹ là chiếc lá chắn an toàn che chở suốt đời
cho con. Do vậy, đạo làm con là phải giữ tròn chữ
hiếu. Con người thực hành được Hiếu đạo, chính
là tạo được công đức rất lớn.
-
KINH ĐẠO NAM, một loại sách hiếm lạ
Gọi hiếm lạ có lẽ cũng không quá đáng, vì trong kho tàng sách Hán Nôm Việt Nam hiện còn đang giữ được, loại sách tương tự như quyển Kinh Đạo Nam rất ít khi được ưu tiên chọn để phiên âm, chú giải và ấn hành, có thể cũng vì tính "thị trường" của nó không cao. Mặc dù vậy, quyển Kinh Đạo Nam viết bằng chữ Nôm mới đây đã được chị Nguyễn Thị Thanh Xuân mang ra phiên âm, chú thích và đã được nhà xuất bản Lao Động ấn hành trong đầu quý II vừa qua.
-
Ôi! Tại sao người ta phải lấy chính sinh mạng mình và sinh mạng kẻ khác để trả giá cho lẽ công bình trên thế gian này? Bởi vì người ta không còn vũ khí nào khác có giá trị lớn lao bằng sự hy sinh tánh mạng.
-
Thánh giáo dạy người hướng đạo chơn tu phải phát huy tiềm lực sâu thẳm mới đạt được những thành tựu công trình đúng theo Thánh ý Thiên cơ.
Tiềm lực là nguồn năng lượng hay sức mạnh ẩn tàng bên trong, không phải là động năng của những hành vi đối phó các sự việc thông thường trên đường hành đạo. Nó rất sâu thẳm nên hành giả phải dụng công khơi dây. Ví như viên ngọc tuyệt mỹ dưới đáy biển, người sưu tầm phải chịu khó nhọc đem bí quyết kình ngư lặn lội nhiều phen mới phát hiện. được.
-
Khai minh Đại Đạo để cứu độ vạn linh thời Hạ Nguơn này, Đức Thượng Đế Chí Tôn đã nêu lên Tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” và mục đích “Thế đạo đại đồng thiên đạo giải thoát” . Nhưng chiếc chìa khóa để triển khai tôn chỉ và thực hành mục đích, phải nhờ đến các Đấng Thiêng Liêng trui rèn bằng giáo pháp và đạo pháp hay giáo lý và pháp môn, lập thành Tân Pháp Đại Đạo.
Nói là Tân Pháp, nhưng kỳ thật là trùng hưng Cựu pháp cộng với Chánh pháp khai minh Đại Đạo bằng nguyên lý Thiên Nhân Hiệp Nhất hay nói dễ hiểu hơn là “Trời đến với chúng sanh để khai Đạo tự hữu trong lòng chúng sanh”. Chúng ta có thể chiêm nghiệm Chánh pháp ấy qua lăng kính Đạo học và Giáo pháp với đề tài: TỪ TRUNG DUNG ĐẾN HOÀNG CỰC và TỪ NHO TÔNG CHUYỂN THẾ ĐẾN THẾ PHÁP DI LẠC
-
Mùa tu Xuân Phân lại về với chúng tôi. Nhớ lại trước đây, mỗi độ gần tới mùa tu thì Đức Lão Tổ có dạy đại ý như vầy.
“Người hành giả có ý thức giác ngộ thì cứ mỗi độ đến mùa tu, hãy lo sắp xếp mọi việc để khép mình vào tịnh đường mà tịnh luyện để nhiếp thâu chỗ giao dịch của Đất Trời để bồi dưỡng thân tâm. Chớ không phải đợi đến khi có lịnh Thiêng Liêng mới làm và khi làm ý niệm của mỗi người không giống nhau, có người làm là vì Thánh Lịnh. Nếu không làm thì sợ đắc tội với Ơn Trên, cho nên làm để trả lễ hoặc để chiếu lệ. Cũng có những người làm để được Ơn Trên chấm công, ban ơn, phù hộ mình đắc đạo”.
“Như vậy thì việc làm đó cảm thấy bị bắt buộc, gò bó chớ không phải do từ trong đáy lòng của mình thúc bạch, thiết tha với vị Đạo, mùi thiên v.v..”
-
" Quyền pháp không giao riêng cho ai, cho xã hội nào, cho tôn giáo nào ; quyên pháp có vẫn có, tùy tâm ý mà đạt định, tùy sứ mạng mà nhận lãnh."
-
hưa tiến sĩ Adler,
Người ta luôn luôn viện dẫn kinh nghiệm, lý trí hoặc đức tin để hậu thuẫn cho những điều họ tin tưởng. Tôi hiểu lý trí và kinh nghiệm là gì, nhưng còn đức tin? Nó có phải là một bột phát cảm tính hoặc cơn dâng trào của tình cảm? Nó có đi ngược lại, hay có thể hòa giải được, với tất cả lý trí và kinh nghiệm? Các nhà tư tư tưởng lớn nói gì về đức tin?
P.L.F.
-
Ngay từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện ở Việt Nam, mà bấy giờ tên gọi là Giao Chỉ Bộ (từ năm 111 trước công nguyên) rồi là Giao Châu (từ năm 203). Giao Chỉ thời Sĩ Tiếp (sử Việt Nam viết là Sĩ Nhiếp) là nơi giao lưu văn hóa Việt-Ấn-Hán, là nơi hội tụ và dung hòa các luồng tư tưởng Ấn-Hán (Phật, Nho, Đạo) với văn hóa bản địa.
-
ĐÔI ĐIỀU TÂM ĐẮC KHI HỌC
LỜI ĐỨC KHỔNG THÁNH VÀ CÁC ĐẤNG TIÊN NHO DẠY
Bài nói chuyện tại Hội trường Thuyết minh giáo lý Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý ngày 01-9 canh Dần (08-10-2010)
. . .Đức Khổng Tử sanh ngày Canh Tý tháng 11 (tháng Tý) năm 21 đời vua Linh Vương Nhà Chu năm Canh Tuất (năm 551 trước tây lịch), tại huyện Khúc Phụ, Làng Xương Bình, nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Cha đặt tên Khổng Khâu, tên chữ là Trọng Ni.
Cha là Ông Thúc Lương Hột. Mẹ là bà Nhan thị Trưng Tại.
- Năm ba tuổi đã thích cúng tế.
- Thành nhân làm Uy lại coi việc tính toán đo lường.
- Kế làm Tư chức lại coi việc chăn nuôi trồng tỉa.
- Năm 34 tuổi diện kiến với Đức Lão Tử. Sau đó đi chu du liệt quốc.
- Năm 56 tuổi về nước Lỗ giữ chức Trung Đô Tể (giữ quốc thành của nước Lỗ), kế làm quan Tư Không rồi Đại Tư Khấu kiêm Tướng quan (Tể tướng). Ngài thi hành pháp công chém đại phu Thiếu Chính Mão.
- Khi hội với nước Tề ở Giáp Cốc, tài ngoại giao của Ngài buộc Tề phải trả các đất đã chiếm của nước Lỗ. Tài cao đức trọng thì bị nhiều dèm pha, Ngài phải từ chức ra đi.
Từ năm 68 tuổi, Ngài chuyên vào công tác văn hóa để lại sự nghiệp cho muôn đời là san định Kinh: Thi, Thư, Lễ; tự viết kinh Xuân Thu và viết Thập Dực cho Kinh Dịch.
. . .
-
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
-
Trướt hết, cần tìm hiểu hai chữ "đồng hành".
Theo nghĩa hẹp, đồng hành là "cùng đi", nhưng cùng đi trong tình huống nào ? Đi cùng một lúc hay cùng một đường, và có cùng đi đến một mục đích hay một địa điểm không ?
Nên đồng hành còn có nghĩa rộng rất quan trọng.
ALBUM:
HỘI NGHỊ GIAO LƯU VI CAC HT. & TỔ CHỨC CAO ĐÀI TẠI ĐÀ NẲNG 18-5-2013
Hội nghị Giao lưu VI khai mạc tại HT. Truyền Giáo Cao Đài ( Đà Nẳng) ngày 18-5-2013,. Các HT., Thánh thất. Thánh tịnh, Cơ Quan Đạo về dự thật đông đảo.
ALBUM:
KHÁNH THÀNH TRUNG TÔNG THÁNH TỊNH HT TRUYEN GIAO
Le khanh thành Trung Tông Thánh Tịnh thuộc HT. Truyền Giáo Cao Đài tại Đà Nẳng
ngày 08 th. 4 năm Quý Tỵ (17-5-2013)
ALBUM:
ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN CƠ QUAN PTGL 2013
Hình ảnh Đại Hội TN, Hội trường Lễ Khánh đản Đức Thái Thượng Đạo Tổ, Họp mặt Nữ phái lần thứ 83 tại Cơ Quan PTGL
ALBUM:
TẤT NIÊN CQPTGL-MUNG XUÂN QÚI TỴ 2013
Hình ảnh buổi liên hoan Tất niên tại Hội trường CQPTGL ngày 26 Tết (06-2-2013)
ALBUM:
Lễ kỷ niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát Thành Đạo 19-6-N.Thìn 2012
Hội trường hành lễ kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
ALBUM:
PHÁI ĐOÀN 6 TÔN GIÁO THĂM BIỂN ĐẢO TRƯỜNG SA
Các phái đoàn tôn giáo Cao Đài, Công giáo, Phật giáo, Hòa hảo, Hổi giáo, Tin Lành, thăm biển đảo Trường Sa 9 ngày từ 17/4/2012, cầu nguyện, ủy lạo, thăm viếng các chiến sĩ Trường Sa.
ALBUM:
Hội nghị Giao lưu các Hội thánh và các Tổ chức Cao Đài lần V tại HT.Cầu Kho Tam Quan
Hội Nghị Giao lưu các Hội Thánh và các Tổ chức Cao Đài lần V tại HT.Cầu Kho Tam Quan (BìnhĐịnh) 02 ngày 07 & 08 / 04/2012.
ALBUM:
Lễ Khánh thành Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà
Ngày 24-10-Tân Mão (19-11-2011) Họ đạo Ngọc Điện Huỳnh Hà thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên tổ chức trọng thể Lễ Khánh thành ngôi Tam đài tại Quận 2 (Thủ Thiêm) TP. Hồ Chí Minh.
ALBUM:
Lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát
Cơ Quan PTGL tổ chức Lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT ngày 19 - 6 - Tân Mão (19 - 7 - 2011)
ALBUM:
Chùa Vĩnh Tràng thị xã Mỹ Tho Tiền Giang
Chính điện chùa Vĩnh Tràng được xây bằng bê-tông theo hình chữ “Quốc” như các chùa Hoa nhưng chùa Vĩnh Tràng có những hoa văn theo kiểu thời Phục Hưng, vòm cửa theo kiểu La Mã, bông sắt theo phong cách Pháp, nền lót gạch men Nhật Bản. Riêng chữ Hán được viết theo kiểu chữ triện cổ kính, còn chữ quốc ngữ viết theo lối chữ Gô-tích. Nhìn tổng quan bên ngoài, kiến trúc chùa là sự giao thoa giữa Á và Âu một cách lạ mắt nhưng hài hòa.
http://www.tiengiangonline.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2221
