Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
Có thể bạn chưa xem qua
  • Người Mường, còn gọi là người Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao tá, là một dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa. Họ rất gần với người Kinh, một số nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết người Mường về mặt sắc tộc chính là người Kinh nhưng vì cư trú ở miền núi nên họ ít chịu ảnh hưởng của người Trung Quốc. Dân số hiện nay là 914.600 người.


  • Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 04-3 Quí Sửu (06-4-1973)


  • Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo gồm Cựu Ước và Tân Ước. "Cựu ước" có nghĩa là "giao ước cũ", trình thuật về diễn tiến lịch sử dân Do Thái, trong đó có mấy lần Thiên Chúa Yavê giao ước với loài người: lần I, giao ước với Noê; lần II, giao ước với Abraham, tổ phụ dân Do Thái ; lần III, sau khi dân Do Thái rời khỏi Ai Cập, Thiên Chúa truyền "Mười điều răn" và giao ước với toàn dân trên núi Sinai qua trung gian Mosê. "Tân ước" là "giao ước mới" giữa Thiên Chúa và loài người được hiện thực nơi một nhân vật lịch sử mang thiên tính là Đức Giêsu, vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Thiên Chúa.


  • Những hạt cà phê / Lê Anh Dũng

    “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.” (Mạnh Tử)
    Đây là chuyện tôi nghe. Một cô gái mới tập tễnh vào đời than thở với cha về những gian nan bất trắc của cuộc sống đầy thử thách khắc nghiệt. Dường như mỗi khi cô vừa giải quyết xong một vấn đề thì lại có một vấn đề khác chực chờ sẵn! Cô cảm thấy đuối sức và muốn buông xuôi…


  • Samedi 18 Septembre 1926
    13 tháng 8 năm Bính Dần
    Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài
    Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
    Giáo Ðạo Nam Phương

    Các con, Thầy đã lập thành Thánh-Thất; nơi ấy là nhà chung của các con; biết à.
    Thầy lại quy Tam-Giáo lập thành Tân-Luật, trong rằm tháng mười có đại-hội cả Tam-Giáo nơi Thánh-Thất. Các con hay à!
    Sự tế tự sửa theo "Tam-Kỳ Phổ-Ðộ" cũng nơi ấy mà xuất hiện ra; rõ à!
    Từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn-thật là Ðạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là "Quốc-Ðạo", hiểu à!


  • Tiểu sử Thánh Tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo / Ban Cai Quản Thánh tịnh Chiếu Minh Ẩn Giáo

    Cách nay 19 năm, năm Bính Dần ( 1926) , Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chính thức mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại miền Nam Việt Nam có danh hiệu là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tên thường gọi là Đạo Cao Đài với tôn chỉ “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chỉ Phục Nhứt” để tận độ vạn linh sanh chúng trong thời hạ ngươn mạt kiếp này.


  •  Thánh giáo Cao Đài đã viết : "Nguyên thỉ con người không tự có tôn giáo, vì tự trong sâu thẳm của con người đã có một nguồn sinh tồn vĩ đại bất biến về Đạo. Tôn giáo chỉ xuất hiện ngay nét mặt sẩm tối màu địa ngục của thế gian, do cuộc chuyển hướng quan trọng của loài người, ý niệm về tôn giáo của con người kết thành từ đó".


  • Con đường đi đến chỗ trực nhận cái tâm tuy muôn nghìn lối nẻo, song tựu trung lại chỉ có hai hướng chính mà thôi. Cũng phải nói thêm rằng, chỉ đến Tam Kỳ Phổ Độ con người mới thực sự được ban trao một khả năng mới không hạn định vào bất cứ phương cách chi tiết nào miễn sao việc đó nằm trong phạm vi của pháp môn Tam Công, đây chính là tổng pháp tông của người Cao Đài.


  • Từ khi Đức Chí Tôn khai Đạo, Thầy đã nhiều lần nhắc nhở môn đồ rằng, Thầy mở Đạo kỳ này là thực hiện đại cuộc Qui nguyên.
    Qui nguyên có nghĩa là trở về nguồn gốc sau những thời kỳ vạn sự, vạn vật được sanh hóa cùng cực, lại đến giai đoạn quay về chỗ khởi sanh. Gốc chỉ có một, mà ngọn thì thành muôn. Vì thiên hình vạn trạng nên các loài đều khác nhau về hình thức. Đối với loài người, chẳng những khác nhau về màu da sắc tóc, mà về tinh thần và tư tưởng lại càng có nhiều dị biệt. Từ đó nảy sinh khái niệm “Bản thể - hiện tượng” là hai phạm trù đi đôi như Âm với Dương, nhưng có những mối tương quan mật thiết.
    Để giải thích lý tương quan ấy, các đạo gia nêu lên chủ thuyết “Đạo là Mẹ của muôn loài” (1), Nho gia nói “Thiên địa vạn vật đồng nhất thể”, Phật nói “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Các triết gia thì đề cập khái niệm “phổ quát đối ứng với bản sắc đa thù”. Về văn hóa, một triết gia viết: “Văn hóa nhân loại, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể quy gọn ở mức là tổng số của những nền văn hóa riêng biệt. Bởi vậy, Goethe kêu gọi các nhà thơ, các nghệ sĩ và các nhà tư tưởng hãy ra khỏi cái khung dân tộc mà Herder và các đồ đệ của ông khuôn họ vào.” (2)


  • Để có thể nói được một cách đầy đủ và có hệ thống về mối tương quan giữa văn hóa Cao Đài và văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam đòi hỏi đại cộng đồng Cao Đài cùng nhau phát huy trí tuệ tập thể của từng Hội Thánh, từng tổ chức trong nhà Đạo Kỳ Ba; tức là tất cả đồng tâm hiệp sức để nghiên cứu vấn đề một cách thâm sâu, thấu đáo, và đòi hỏi đầu tư thật nhiều thời gian, tim óc... Mỗi một Hội Thánh, một tổ chức Cao Đài nếu làm sáng tỏ được những nét độc đáo của văn hóa Cao Đài, văn hóa đạo đức dân tộc và trình bày rõ ràng theo góc nhìn của mình, thì khi tổng hợp lại tất cả các công trình ấy, ắt hẳn đại cộng đồng Cao Đài sẽ có được một kết quả chung thật mỹ mãn.


  • Phật Tiên Thần Thánh rộn ràng,
    Đồng vâng ngọc sắc cứu an cõi trần.

    Hiện diện trên cõi trần này, con người cũng đã trải qua nhiều kiếp. Trả hết nợ từ vô lượng kiếp, chúng ta mới có thể trở về. Đạo Thầy mở cơ tận độ, chỉ tu một kiếp được đắc vị, gọi là ”Tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời”. Cõi Thiêng Liêng không phải là nơi ở của những con người còn nặng nợ. Nhưng làm sao trả hết nợ chỉ trong một kiếp đời ngắn ngủi. Con người sẽ không chịu nỗi cảnh nghiệp quả dồn dập. Do đó, nếu không có Đại Ân Xá, các nguyên nhân khó trở về. Tân Pháp Cao Đài chỉ rõ: Nếu công quả là để giải trừ nghiệp quả, và cũng là đường dẫn đến Bạch Ngọc Kinh, thì công trình là chìa khoá mở cửa Bạch Ngọc Kinh và ngôi vị của chúng ta do phần công phu tu luyện vậy.


  • Lịch sử thánh thất Paris / Quách Hiệp Long

    LỊCH SỬ THÁNH THẤT PARIS


    Ghi lại lịch-sử thành-lập Thánh-Thất Cao-Đài Paris là để tưởng-nhớ đến những người tiền-phong đã không ngại khó-khăn, hy-sinh ngày giờ, công của quyết chí gầy-dựng cơ-sở đạo này. Tục-ngữ Việt-Nam có câu: ‘Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng’. Thực-hiện tài-liệu sử đạo này thiết nghĩ là một việc làm hửu-ích, một bổn-phận của đoàn hậu-tấn, để bày-tỏ lòng biết ơn đối với các bậc Đạo-Trưởng và các bậc đàn anh đã kiên-trì nuôi-dưỡng cơ Đạo từ hơn mười mấy năm qua. Sau đây chúng-tôi xin ghi lại lời tường-thuật của Đạo-Tỹ Diệu-Thê :














    Nên Người chẳng phải dễ gì đâu,
    Nên Phật Thánh Tiên lại khó cầu,
    Biết sửa một ly là đắc quả,
    Con ôi Diêu Điện Mẹ đang sầu.

    Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Thiên Lý Đàn, 01-02 Mậu Thân, 27-01-1968

    Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


    Hãy gửi góp ý của bạn tại đây