Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
Có thể bạn chưa xem qua
  • . . . . . Đã Chính Trung thì làm thế nào cho ra Chính, cho phải Trung? Nên “dung ngôn” cần phải Tín, dung hành cần phải Cẩn. Tín và Cẩn là bước đầu của người quân tử xây dựng bản thân, để đủ chí thành bên trong, nuôi giữ cái tâm háo đức lạc thiện, lộ cái chí cao khiết ra bên ngoài, làm thước mực cho con người.


  • Vậy, để hội nhập thế giới trong kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ, người Cao Đài phải nhận định, nắm bắt những chuyển biến hay “bùng nổ” đương đại mà các điểm nhấn thuộc về:
    _ Khoa học kỹ thuật như truyền thông, giao thông, cơ giới, môi trường . . .
    _ Văn hóa như các giá trị nhân bản, nhân văn, cộng đồng, văn học, nghệ thuật . . .
    _ Về tôn giáo như đồng thuận liên tôn, nhập thế và hành đạo thực tiễn vị nhân sanh. . .

    Như thế, khuynh hướng hội nhập của Cao Đài có ưu thế ở mục tiêu “Thế đạo đại đồng”, nhưng phải hiện đại hóa toàn diện từ định hướng hành đạo, đến kế sách đào tạo, phương pháp, phương tiện phổ truyền giáo lý. . .


  • TỔNG QUAN VŨ TRỤ LUẬN ĐẠI ĐẠO / Trich quyển YỂU ĐIỂM GIÁO LÝ ĐẠI đẠO

    Vũ trụ luận Đại Đạo đề cập đến vũ trụ như một tổng thể bao gồm cc đối tượng khả nghiệm v siu nghiệm đối với khả năng nhận thức của con người (vũ trụ, như một tổng thể, thường được gọi l Cn Khơn thế giới, Thin Địa Cn Khơn, vũ trụ Cn Khơn,…)
    Vũ trụ luận Đại Đạo đưa ra cc quan niệm về nguồn gốc, sự vận động v biến hĩa, sự tiến hĩa của vũ trụ trong chiều hướng rt ra cc nguyn lý, cc quy luật chung của sự tồn tại v tiến hĩa của vũ trụ, nhất l cc nguyn lý v cc quy luật dẫn đạo cho sự tiến hĩa của con người đến tầm kích vũ trụ, tức l đưa con người từ vị thế hữu hạn trong khơng gian, thời gian vượt ln tới vị thế con người muơn thuở muơn phương.


  • Đạo lý chính là sự bình đẳng giữa người và người, giữa dân tộc nầy với dân tộc khác. Nên các bậc giáo tổ, thánh nhân lập đạo đều nhắm mục đích dạy nguời đời thực hiện đạo lý ấy. Đó là Bình đẳng quan của Phật, Tề vật luận của Lão Trang, Trung đạo của Nho, mà thời Tam Kỳ Phổ độ nầy Cao Đài dung hợp trong đường lối "Đại đồng công dụng".


  • Đức Thích Ca Mâu Ni thương xót tất cả chúng sanh. Dưới mắt Phật tuy muôn loài có hình dạng khác nhau nhưng có cùng nguyên thủy nguồn gốc và chịu chi phối bởi luật luân hồi nhân quả.



    Chúng sanh tùy theo tạo nghiệp ác hoặc duyên lành mà luân hồi kiếp này sang kiếp khác trong sáu cõi khổ. Cõi khổ thì vô cùng. Trong phạm vi bài viết này tôi xin nêu lên một cảnh khổ vì sự tàn ác không đáng phải có và cần phải chấm dứt ngay tức khắc vì sự vô nhân đạo cùng cực của nó.


  • . . ."Vào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như nhau. Những kẻ nhiều tội ác thì tất phải thọ quả ác. Người lương thiện thọ nạn như vậy tức là thọ phước. Vì sao? Vì những kẻ tội ác hiểm độc, nếu chết là hiểm nạn, chết là khổ não,chết là thoái hóa, chết là mất mạng, mất lộc, mất lợi, mất thân, mất thể.


  • TỔNG QUAN VỀ Ý THỨC HỆ CAO ĐÀI


    1. Định nghĩa

    1.1. Ý thức hệ

    Con người là những cá thể và quần thể sống có suy nghĩ, có tư duy. Sự suy nghĩ hay tư duy giúp cho con người có tư tưởng.

    Giữa tư tưởng và ý thức có một mối liên hệ mật thiết. Đức Đông Phương Chưởng Quản đã dạy:

    “Tư tưởng là gồm những ý thức trưởng thành để linh động hóa tiềm năng vô cùng của con người.”[1]

    Những tư tưởng dẫn dắt nếp sống, đường lối hành động của con người, vạch ra mục đích cuối cùng của một tập thể, một dân tộc hay nhiều dân tộc gọi là “Ý thức hệ” (Ideology).

    Trong “The American Heritage Illustrated Encyclopedic Dictionary”, ý thức hệ được định nghĩa:

    “Ý thức hệ là phần trọng tâm hay chính yếu của tư tưởng, phản ảnh các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân, tập thể hay một nền văn hóa.”

    “Ý thức hệ là một hệ thống học thuyết hay tín ngưỡng làm nền tảng cho một hệ thống chính trị, kinh tế hay các hệ thống khác.”[2]


  • Ngày nay trên thế giới, hầu hết các nhà khoa học của các ngành Khoa Học Nhân Văn như Lịch sử học, Khảo cổ học, Tôn giáo học, Xã hội học, Nhân chủng học, Tâm lý học, Triết học . . . đều phát hiện và xác nhận giá trị nhân văn của các đạo giáo xuất hiện trên địa cầu.

    Chính tính nhân văn của các đạo giáo, trước nhất làm cho người theo đạo từ bỏ mặc cảm là kẻ thấp hèn, không còn lệ thuộc vào tha lực. Kế đến, giá trị nhân văn ấy cũng sẽ xóa tan thành kiến cho rằng đạo giáo đều là huyền hoặc, là ảo tưởng.

    Nhân ngày khánh đản của Đức Thái Thượng Đạo Tổ, chúng tôi xin trích đọc một đọan huấn từ của Ngài vào một mùa xuân, liên quan đến đề tài hôm nay:

    " Đã học đạo, hành đạo,  tất biết đạo hằng  có trong vạn vật.  Vạn vật sinh tồn trong lý đạo. Những phương pháp, phương châm, bí quyết để con người được biết rõ chính mình và biết sống trong lý đạo để bảo trì nhân bản trên xã hội nhân loại này đều tóm vào một ý  nghĩa của mùa  xuân, bởi xuân  là mùa lập  lại qua cuộc  sanh trưởng thâu tàng, biết hòa dịu để lưu hành trưởng dưỡng. [. . .]
    "Nếu toàn thể những người được đứng  trong khuôn viên tôn  giáo đạo đức, đều  đồng lòng hòa hợp  lại trong tinh thần vô cố, vô chấp, vô ngã, vô công, vô danh thì có lo chi không giải được sự cộng nghiệp của chúng sanh, đem lại thanh bình an lạc chung cho thế giới nhân loại"


  • K….Khá nghe dạy : Rừng thiền nhặt thúc tiếng chuông trưa Phước gặp về Ta , buổi đã vừa . Nẽo hạnh làu soi gương Nguyệt thắm . Sân ngô rạng vẽ cánh thu đưa . Mai tàn cúc xủ đời thay đổi. Dữ tận hiền thăng khách lọc - lừa. Mùi đạo gắng giồi lòng thiện niệm. Duyên may tìm lại phẩm ngôi xưa .
    o0o _ Màn trời che lấp dấu trần , Đạo Thánh dắt dìu bước tục.Cuối Hạ Nguơn biết bao đời thay đổi


  • Đề tài đặt vấn đề mối quan hệ giữa Nhân sinh quan Cao Đài và bối cảnh xã hội nhân loại ngày nay hay sự ứng phó của Nhân sinh quan này với các vấn nạn của đời sống mới.


  • Vĩnh là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên là nguyên bổn, hằng hữu hằng thường. Chỉ có cái nguyên bổn mới hằng hữu hằng thường bất di bất biến. Vạn hữu do từ hằng hữu mà sanh. Vô thường do từ hằng thường mà có.
    Con người là một cá thể trong vạn hữu. Người có biết tu chơn ngộ Đạo mới có thể trở về nguyên bổn hằng hữu hằng thường bất di bất biến trong cảnh giới vĩnh cửu hư linh.


  • Con người hôm nay và con người hôm qua – con người của ngàn xưa – dường như không khác nhau là mấy. Cởi bỏ lớp vỏ bọc văn minh vật chất, con người ấy, dẫu hình hài có thanh tú mỹ lệ hơn con người ban sơ, nhưng nỗi khắc khoải vẫn còn nguyên vẹn. Vẫn còn đấy niềm băn khoăn muôn thuở: con người, mi là ai? Một nhà thơ nào đó đã từng òa khóc cho thân phận con người trong cảnh thương hải tang điền: «Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?» Hoặc như thi nhân Trần Tử Ngang (651-702) đời Đường đã chua xót ngậm ngùi:














    Các con tuân lịnh của Thầy ban,
    Độ thế qua cơn thế khổ nàn,
    Đem tiết xuân gieo cùng khắp chốn,
    Để đời tận hưởng thú vinh quang.

    Đức Chí Tôn, Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ, 08-02-1967

    Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


    Hãy gửi góp ý của bạn tại đây