
Đại Đạo là con đường rộng lớn nhứt để đưa nhân loại đến đại đồng thế giới, không kỳ thị phân chia, phù hợp xu hướng văn minh tiến bộ, tạo cảnh giới an lạc hòa bình, hạnh phúc trần gian, và siêu xuất thế gian; đó cũng là chiếc Bát nhã thoàn đưa khách năm châu đến cứu cánh tận độ.

Qua tham khảo các đề tài nghiên cứu hay thuyết giảng giáo lý đạo Cao Đài, chúng ta có thể thấy nhiều soạn giả khai thác các hệ thống phạm trù cơ bản của nền Giáo lý Đại Đạo được xếp loại như sau: I. Hệ thống Bản thể: Vô Cực – Thái Cực – Hoàng Cực II. Hệ thống Chủ thể: Diêu Trì Kim Mẫu – Ngọc Hoàng Thượng Đế - Đấng Thiêng liêng III. Hệ thống Thiên cơ: Đạo – Sanh hóa – Tiến hóa IV. Hệ thống tâm linh: Đại linh quang – Tiểu linh quang –Chân ngã- Linh hồn V. HT. Đạo pháp : Nguyên thần – Tánh Mạng – Thần khí VI. HT. Sứ mạng: SM. Đại đồng - SM. Đại thừa - SM. Quy nguyên

“Quyền pháp Đạo không là điều cai trị. Quyền pháp Đạo chính là sự thương yêu, giải thoát cai trị để tiến hóa.”

Đạo Cao Đài (tên gọi tắt của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) được khai minh trên mảnh đất Việt Nam vào những năm 20 của thế kỷ trước. Theo đức tin của đạo hữu, tôn giáo này do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (hay còn gọi là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) mở ra tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua huyền diệu cơ bút thông linh mà thâu nhận, truyền dạy các đệ tử mà về sau là những tiền khai xây dựng nên.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao Đài giáo ra đời từ năm 1925-1926, cho đến nay đã trải qua gần 2/3 thế kỷ, thời gian cũng gọi là dài so với đời sống con người, nhưng so với những tôn giáo khác, Cao Đài còn rất trẻ. Từ đó đến nay, không kể đến những thăng trầm của cơ Đạo, tôn giáo Cao Đài đã phải chịu rất nhiều sự chê bai, chỉ trích, ngộ nhận của đủ mọi giới trong xã hội không kể lương hay giáo. Nhưng theo thời gian, với con số từ 500 000 tín đồ sau vài năm Đạo khai, lên đến trên 1 triệu tín đồ vào năm 1937 và đến nay hơn 5 triệu, Cao Đài giáo đã tự khẳng định được vị thế của mình trong vai trò một tôn giáo với đầy đủ ý nghĩa và quyền pháp.

1. Nghiên cứu việc các tín ngưỡng hay tôn giáo chọn CON MẮT để thờ thần, người ta không khỏi ngạc nhiên từ thời Cổ Ai Cập (Predynastic Ancient Egypte 5.000-4.000BC) người Ai Cập xưa từng chọn con mắt làm biểu tượng thờ thần Horus. Thần Horus, theo tôn giáo Cổ Ai Cập là thần của cõi trời (sky god) có quyền năng bảo hộ (protection) và về chiến tranh (being the god of the sun, war and protection) . Đặc biệt, người Ai Cập cho rằng 2 con mắt của thần Horus thuộc về mặt trời (mắt phải) và mặt trăng (mắt trái). Họ đồng hóa mắt phải của Horus với thần mặt trời, thần Ra; và mắt trái với mặt trăng, thần Thoth . Hình tượng Horus trong các đền thờ là một nhân hình có đầu là đầu chim ưng (falcon). Do vậy, 2 con mắt của chim ưng làm tiêu biểu cho mắt thần Horus. Với xác tín này, một con mắt duy nhất đã đươc thiết kế làm biểu tượng chính cho thần Horus, nói lên đầy đủ quyền năng của vị thần là thần lâu đời nhất giữa các thần khác và là “quốc thần”

Đêm Trung Thu Bàn Đào Hội Yến, Cuộc tương phùng u hiển tình thâm; Chứng lòng Mẹ mới giáng lâm, Nương huyền linh điển âm thầm nhủ khuyên. Giác ngộ phải nhớ đàng quay lại, Bằng muội mê khổ hải trầm luân; Con ôi! Thế lộ trông chừng, Noi theo chánh đạo chớ dừng bến mê. . .

Thiên là từ Hán Việt để diễn đạt TRỜI của chúng ta. Từ lâu Đức Cao Đài dạy: Thầy mong con biết Thầy, hiểu Đạo, Cho thế gian cải tạo thanh bình… Biết Thầy, hiểu Đạo là lễ phẩm trân trọng chúng ta kính dâng lên Đức Chí Tôn. Trong giới hạn của kiến giải và khuôn khổ của thời gian, đạo đệ xin trình bày đôi điều về CHỮ THIÊN TRONG ĐẠO CAO ĐÀI.
VŨ TRỤ QUAN - NHÂN SINH QUAN CAO ĐÀI /
VŨ TRỤ QUAN Có thể nói Vũ Trụ Quan Cao Ðài bao hàm hai khái niệm quan trọng là: -Cơ nguyên biến sanh vũ trụ. -Qui luật tiến hóa tâm linh.
VŨ TRỤ QUAN Có thể nói Vũ Trụ Quan Cao Ðài bao hàm hai khái niệm quan trọng là: -Cơ nguyên biến sanh vũ trụ. -Qui luật tiến hóa tâm linh.

Hội Yến Diêu Trì là một trong những sự kiện trọng đại của thời kỳ tiềm ẩn trong lịch sử hình thành Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tuy nhiên, phần lớn các sử gia Cao Đài chỉ mới chuyển tải được nội dung tổng quát chứ vẫn chưa nhấn mạnh đến vài chi tiết căn bản như danh hiệu chính xác của Đấng Nữ Thiêng Liêng cao cấp gắn liền với sử kiện này là gì... Vì thế với những thông tin đã được phổ biến qua sách báo hay bài thuyết đạo của một số tác giả đã làm cho một số lớn tín hữu Cao Đài chúng ta chưa được cung cấp chi tiết thật sự chính xác theo lịch sử. Chính vì vậy, có một nhầm lẫn khá nghiêm trọng đã xảy ra và kéo dài cho đến hiện nay! Từ sai lệch này đã dẫn đến một vài hệ lụy khác. Để có thể khắc phục phần nào sự cố đáng tiếc này, chúng ta cần lật lại các trang sử và cất công đi tìm những chứng cứ để góp phần điều chỉnh những lệch lạc nhận thức về Đức Chưởng Quản Diêu Trì Cung hầu góp phần gầy dựng việc “thống nhứt tinh thần” cho toàn đạo với sự kiện lịch sử hết sức quan trọng này!
VÀI ĐIỂM LÝ THÚ TRONG ĐẠI LỄ KHAI MINH /
Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo đã diễn ra tại Thiền Lâm Tự - Gò Kén Tây Ninh, sau khi hòan chỉnh ngôi Thánh thất đầu tiên. Khi đó, một đạo sự trọng tâm trong việc “phổ độ” đã diễn ra liên tục hằng đêm tại Thiền Lâm: “Cơ Bút thâu nhận sanh linh … theo Thiên thơ.” - Nhiều người Việt, người Hoa, người Miên, người Pháp, một số dân tộc thiểu số ở miệt biên giới như người Tà Mun v.v… đã được Ơn Trên thâu nhận qua các buổi đàn cơ.
Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo đã diễn ra tại Thiền Lâm Tự - Gò Kén Tây Ninh, sau khi hòan chỉnh ngôi Thánh thất đầu tiên. Khi đó, một đạo sự trọng tâm trong việc “phổ độ” đã diễn ra liên tục hằng đêm tại Thiền Lâm: “Cơ Bút thâu nhận sanh linh … theo Thiên thơ.” - Nhiều người Việt, người Hoa, người Miên, người Pháp, một số dân tộc thiểu số ở miệt biên giới như người Tà Mun v.v… đã được Ơn Trên thâu nhận qua các buổi đàn cơ.

Kỷ niệm lễ Khai Minh, Nén hương nguyền lâng lâng tâm đạo, Nhớ người xưa gian khổ theo Thầy hằng chỉ giáo ; Từ rừng già dựng Thánh thất nguy nga, Pháp Chánh Truyền, Tân Luật nêu đuốc sáng Kỳ Ba ;