

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
VẠN HẠNH THIỀN SƯ, Bần Tăng chào mừng chư hiền đệ hiền muội lưỡng ban đàn nội. THI Chuỗi dài ý hệ ...
-
Nếu có dịp chứng kiến đại lễ Khai Minh Đại Đạo vào năm Bính Dần 1926, có lẽ đại đa ...
-
Xuân là mùa hội tụ tinh hoa, hương sắc đất trời ; xuân mang nét thanh tân, hương vị ngạt ...
-
Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ...
-
Xuân thiên nhiên vẫn đến theo chu kỳ tứ quý. Thiên nhiên thuộc về nguyên lý tự nhiên [1] . ...
-
Bát Bửu Phật Đài, Ngọ thời Rằm tháng 7 năm Tân Sửu (25 8 1961)
-
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao Đài giáo ra đời từ năm 1925-1926, cho đến nay đã trải ...
-
"Hãy giữ gìn quyền pháp đạo luật. Hãy bảo trọng Thánh thể của Chí Tôn..."
-
Luật lệ Đức Lý Đại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, Lão mừng chư độ hoằng khai Đại Đạo, đều phải đồng một ...
-
Một trong những đặc điểm của Cao Đài giáo là Đấng Giáo Chủ vô hình vì thế biểu tượng thờ ...
-
Đức Lý Đại Tiên Trưởng Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dạy rằng sứ mạng của ...
-
Dưới đây là một vài trích dẫn về phong trào xã hội hóa học thiền và tập dưỡng sinh tại ...
Nguyễn Ngọc Châu sưu tầm
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009
Ngũ Liên Huờn Thi

ĐẠO VÀ ĐỜI
Người đời và người Đạo có cái nhìn khác nhau về Đạo …(Nguyễn Ngọc Châu sưu tầm)
Chánh Phối Sư Ngọc Hường Thanh
Tòa thánh An Hội Bến Tre, tháng Giêng Ất Tỵ 1965
Học cho mình, tu cũng cho mình,
Đạo ở giữa mình ấy Đạo linh,
Tà chánh tự nhiên do nhử kỷ,
Giác mê há phải kiếm trong Kinh.
Thờ Trời chớ để lòng dua mị
Tu Phật đừng lờn thói kỉnh tin.
Cung kính không bằng hơn phụng mạng
Người hay tự lực mới quang minh.
Quang minh gốc ở tại trong tâm,
Chớ kiếm đâu xa phải lạc lầm,
Tánh được thiên nhàn là cực lạc,
Tâm hay phá ám ấy Quang âm.
Tai nghe điều tức bèn vô thượng,
Mắt giữ hồi quang thật thậm thâm,
Cửa đống then gài gìn mối Đạo,
Công phu mình biết Đạo mình cầm.
Mình cầm Tâm được nữa mình nhờ,
Hơi sức nào lo chuyện bá vơ,
Chớ khá ham mê mừng núp bóng,
Rồi sau tĩnh ngộ chịu lơ đờ.
Tu là tự biết đâu là Đạo,
Đạo phải cần tu chưa phải thờ.
Ví biết nhơn thân, thân tự độ
Hồi quang phản chiếu thấy Thiên cơ.
Thiên cơ có sẵn dễ chi dò,
Vì bởi người tu chưa dứt lo,
Chẳng xét phận mình trong lẫn đục
Lo chi thiên hạ đói và no.
Chữ tu ngoài miệng la rùm ỏi,
Ông Phật trong Tâm bỏ tối mò,
Cười kẻ cho rằng mình mộ Đạo,
Mà nhè bỏ Đạo nghĩ buồn xo.
Buồn xo cho kẻ tưởng đâu linh,
Đạo nắm trong tay chẳng biết gìn,
Chỉ giỏi khoe tài tranh giáo lý,
Nào hay đóng cửa tụng huỳnh đình,
Cái câu vô sự là tinh tấn.
Còn thuyết làm thinh mới phát minh,
Hởi bạn tu hành mau tĩnh ngộ,
Học cho mình, tu cũng cho mình.
CPS. NGỌC HƯỜNG THANH
Năm bài thi họa lại 5 bài trên của Ông Nguyễn Ngọc Bích (*) đáp họa tháng bảy cùng năm Ất Tỵ 1965 tại Tòa thánh An Hội Bến Tre,
Học cho người , tu chẳng cho mình,
Đạo gốc thương yêu mới Đạo linh,
Tế thế tâm thành, âu khắc kỷ,
An ban chí nguyện, nại hòa Kinh.
Cầu Trời nhỏ phước chan đau khổ,
Khẩn Phật thi ân giảm mị tin.
Chẳng nệ công lao cùng tánh mạng,
Giúp đời hổn độn được quang minh.
Quang minh quảng đại thức nhơn tâm,
Bác ái từ bi, Đạo khó lầm,
Vạn vật yên vui, nền cực lạc,
Trâm dân thịnh vượng, cửa Quan âm,
Vùi thân công quả, cho là được,
Ổn thỏa ngồi thiền, giữ ấy thân.
Mở rộng tâm linh, vì đạo cả,
Thương toàn hạ thú, lẫn thượng cầm.
Thượng cầm thoát ác, thượng cầm nhờ,
Tu ấy là thương kẻ bá vơ,
Phật biết qưyên sinh, nuôi cọp đói,
Trời cho tĩnh ngộ hết lơ đờ.
Vong thân diệt ngã, đây là Đạo,
Cố chấp, duy tư, mối thẫn thờ,
Đả biết hy sinh là tự chủ,
Đương nhiên bất chấp, hướng Thiên cơ.
Thiên cơ bất lậu, có chăng dò?
Chẳng muốn, không ham, lại tuyệt lo,
Nhân tình tà vạy, Tâm hôn tối,
Công chánh quang minh , lẽ ấm no,
Lý gìn, nén dục, duyên trong trẻo,
Tâm động, sân si, quả tối mò,
Tâm tức nương nhau, nên đại định,
Qui căn phục mạng khỏi ngồi xo.
Ngồi xo chạnh nghĩ đến sanh linh,
Tánh mạng mai sau thật khó gìn,
Cảm kẻ giùm đưa rời khổ hải,
Mong ai tế độ khỏi lối đình,
Hồi quang phản chiếu, chưa vô ngã,
Tâm chánh công phu, chỉ tự mình,
Cứu nhân độ thế, Tâm không ấy,
Học cho người, tu chẳng cho mình.
NGUYỄN NGỌC BÍCH (1911 - 1967)
(*) Ông Nguyễn Ngọc Bích là con thứ tư của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương. Ông tốt nghiệp Kỷ sư Trường Bách Khoa ( Ecole Polytechnique), trường Kỹ sư Cầu Cống ( Ecole des Ponts et Chaussées) và Y Khoa Bac Sỉ tại Paris, Pháp. Ông từng có tiếng là "Bác Vật phá cầu" khi giử trách nhiệm Khu Phó Chiến Khu IX trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.