Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Long Thụ /
Động cơ trung tâm cho việc hoá độ của Long Thụ – một công trình hoằng pháp lập cơ sở cho Trung quán tông sau này cũng như lưu lại nhiều tác phẩm triết học Phật giáo – chính là việc khôi phục giáo lí của đức Phật.
-
Cuộc sống trên độ cao tới 4.900 m buộc người Tây Tạng phải tiến hóa rất nhanh để tồn tại.
Tại sao người Tây Tạng sống được trên mái nhà thế giới?
-
ĐÔI ĐIỀU TÂM ĐẮC KHI HỌC
LỜI ĐỨC KHỔNG THÁNH VÀ CÁC ĐẤNG TIÊN NHO DẠY
Bài nói chuyện tại Hội trường Thuyết minh giáo lý Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý ngày 01-9 canh Dần (08-10-2010)
. . .Đức Khổng Tử sanh ngày Canh Tý tháng 11 (tháng Tý) năm 21 đời vua Linh Vương Nhà Chu năm Canh Tuất (năm 551 trước tây lịch), tại huyện Khúc Phụ, Làng Xương Bình, nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Cha đặt tên Khổng Khâu, tên chữ là Trọng Ni.
Cha là Ông Thúc Lương Hột. Mẹ là bà Nhan thị Trưng Tại.
- Năm ba tuổi đã thích cúng tế.
- Thành nhân làm Uy lại coi việc tính toán đo lường.
- Kế làm Tư chức lại coi việc chăn nuôi trồng tỉa.
- Năm 34 tuổi diện kiến với Đức Lão Tử. Sau đó đi chu du liệt quốc.
- Năm 56 tuổi về nước Lỗ giữ chức Trung Đô Tể (giữ quốc thành của nước Lỗ), kế làm quan Tư Không rồi Đại Tư Khấu kiêm Tướng quan (Tể tướng). Ngài thi hành pháp công chém đại phu Thiếu Chính Mão.
- Khi hội với nước Tề ở Giáp Cốc, tài ngoại giao của Ngài buộc Tề phải trả các đất đã chiếm của nước Lỗ. Tài cao đức trọng thì bị nhiều dèm pha, Ngài phải từ chức ra đi.
Từ năm 68 tuổi, Ngài chuyên vào công tác văn hóa để lại sự nghiệp cho muôn đời là san định Kinh: Thi, Thư, Lễ; tự viết kinh Xuân Thu và viết Thập Dực cho Kinh Dịch.
. . .
-
Hằng năm, có một trùng hợp khá đặc biệt thuộc về 2 tôn giáo lớn là lễ Đản sinh của Phật giáo vào giữa tháng tư Âm lịch và lễ Phục sinh của Ki-Tô giáo vào giữa tháng tư (hoặc cuối tháng 3) Dương lịch. Đản sinh là ngày sinh của Đức Thích Ca Mâu Ni; Phục sinh là ngày sống lại của Đức Jésus Ki-Tô.
-
Khai minh Đại Đạo để cứu độ vạn linh thời Hạ Nguơn này, Đức Thượng Đế Chí Tôn đã nêu lên Tôn chỉ “Tam giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhất” và mục đích “Thế đạo đại đồng thiên đạo giải thoát” . Nhưng chiếc chìa khóa để triển khai tôn chỉ và thực hành mục đích, phải nhờ đến các Đấng Thiêng Liêng trui rèn bằng giáo pháp và đạo pháp hay giáo lý và pháp môn, lập thành Tân Pháp Đại Đạo.
Nói là Tân Pháp, nhưng kỳ thật là trùng hưng Cựu pháp cộng với Chánh pháp khai minh Đại Đạo bằng nguyên lý Thiên Nhân Hiệp Nhất hay nói dễ hiểu hơn là “Trời đến với chúng sanh để khai Đạo tự hữu trong lòng chúng sanh”. Chúng ta có thể chiêm nghiệm Chánh pháp ấy qua lăng kính Đạo học và Giáo pháp với đề tài: TỪ TRUNG DUNG ĐẾN HOÀNG CỰC và TỪ NHO TÔNG CHUYỂN THẾ ĐẾN THẾ PHÁP DI LẠC
-
“Từ thuở khai Thiên tịch Địa sắp bày trần thế đến ngày nay, các con chỉ hiểu đạo khai trong những thời kỳ hỗn loạn để cứu thế, hay đạo khai trong cơ biến dịch đất trời. Đến ngày nay, Thầy đã dạy rất nhiều và rất rõ ràng cho các con từ mấy mươi năm qua, đạo là con đường duy nhứt của vạn linh sanh chúng, từ Thầy ban phát đến thế gian, và từ thế gian các con trở lại cùng Thầy. [. . .]” Ngọc Minh Đài, Tuất thời 29 tháng chạp Bính Ngọ (8-2-67)
-
CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO
HUỆ NHẪN
12/2006
NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO
(Năm chi Đạo họ Minh)
VÀ NHỮNG LIÊN HỆ VỚI ĐẠO CAO ĐÀI
-
Quan điểm
MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐÓNG GÓP ĐƯỢC GÌ CHO NHÂN LOẠI?
Một nhà tư vấn chính sách , Simon Anholt, mới đây đã thực hiện một bảng thống kê gọi là “Good Country Index” (1) để đánh giá khả năng đóng góp cho nhân loại dựa theo thông tin của Liên Hiệp Quốc và World Bank. “Good Country Index” phân tích đóng góp của 125 nước trên các mặt khoa học công nghệ, văn hóa, hòa bình và an ninh quốc tế, trật tự thế giới, khí hậu, thịnh vượng, bình đẳng, sức khỏe. . .
Điều chúng ta lưu ý ở đây, bản thống kê đã cảnh báo là Việt Nam là nước có mức “đóng góp cho nhân loại” được xếp hạng áp chót, chỉ trên Libya (tức 124/125).
Đánh giá nêu trên, trước khi nêu lên những lý do khách quan này khác, khiến mỗi người Việt Nam chúng ta sẽ tự hỏi, cá nhân mình và dân tộc mình có thể đóng góp được gì cho nhân loại, hay vì ta không hề đóng góp nên có kết quả như thế?
-
Các Thánh Triết ở Ấn Độ và Trung Hoa, cũng như Do Thái, La Mã, Hy Lạp đều nhận bản thể của vũ trụ là tự tánh hằng hữu, tồn tại bất biến. Tự tánh đó là nguồn sống vô biên, tràn ngập, trở nên thiên sai vạn biệt, muôn hình ngàn trạng. Bản nguyên tự thể đó là tự do, ngoài không gian và thời gian, im lặng, không bị một vật nào câu thúc. Chỉ có đồng nhứt với tự thể đó mới có tự do, mới không còn bị vũ trụ ảo hóa, phỉnh phờ, ám ảnh được.
-
Sáng tinh mơ, khách dạo quanh vườn hoa kiểng, chợt bước vào nếp cỏ xanh, thấy lớp sương còn đọng long lanh giữa tiết Đông giá buốt. Khách thầm nghĩ, nếu như Xuân về muộn, mai nầy sương sẽ đóng băng, tự nhiên cản lối di hành. Ôi ! cái luật dinh hư tiêu trưởng có chờ ai chậm tiến! Bỗng nhớ câu “Lý sương, kiên băng chí” trong quẻ Khôn Kinh Dịch.
-
Trong khi đi tìm một giáo lý thuần nhất về vũ trụ và con người qua các tôn giáo chúng ta đã được thuyết minh về phạm trù đại vũ trụ và phạm trù tiểu vũ trụ. Cái trước là một thực tại nhất thể bao dung cả vật chất lẫn tâm linh trong đó mọi biến hóa sanh thành của vạn vật đều được qui định bất biến bởi một bản thể duy nhất đồng nhất, một động lực duy nhất tuyệt đối và một qui trình nhất định. Cái sau là thực tại đồng nhất với cái trước đang vận động trong một qui phạm giới hạn nhưng đặc điểm của nó là vẫn góp phần vào cái trước một cách tự nhiên vừa có khả năng phát triển đến cũng cực một khi đạt đến ý thức tự chủ của một tiểu vũ trụ.
Cái ý thức tự chủ đó là sự “nhất quán” được đạo lý trong vũ trụ vạn vật. Cao Đài gọi là Đắc Nhất. Đắc Nhất là đứng ở vị trí của chính Trung và chấp hành được Quyền Pháp.
-
Troisième Ere Universelle du Salut Divin de Dai Dao
Organisme de Diffusion du Dai Dao
Questions
et Réponses
sur le
CAODAÏSME
Traduit du vietnamien par
L’église Cao Dai de Paris
Seconde Edition
2011 – Année caodaïste 86
Ont contribué à la traduction :
Dr DO CAO Minh
M. JAMMES Jérémy
M. LÊ Quan Son
M. QUACH-HIEP Long
Mlle QUACH-HIEP Thanh-Tâm
Dr TRUONG Tân Nghiêp
