Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Theo cuốn Hội chân biên của Thanh Hoà Tử, in vào năm thứ 7 đời Thiệu Trị (1847), thì ở Việt Nam có 27 vị Thần sinh ra hay đã từng sống trên đất nước ta trong đó có 14 vị là các nữ thần. Do sự lựa chọn tài tình của dân gian, trong các vị thần linh ấy có bốn vị được suy tôn là Tứ bất tử (bốn vị Thánh bất tử): Đức Thánh Tản, Chử Chử Đồng Tử , Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
-
Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới sang canh đã sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây xanh
Yên Tử là một vùng núi thật đẹp, thiêng liêng và huyền bí, phía Bắc giáp với Cao Bằng và Lạng Sơn, là ải địa đầu của nước ta và cũng là nơi mà tiền nhân ta đã chọn để tu hành và lập nên phái Thiền Trúc Lâm.
-
Trước đây, ngay từ những năm đầu của đạo Cao Đài, một số sách báo khi viết về những "tiên tri" Cao Đài xuất thế thường truyền lại rằng trong sách Ấu Học Quỳnh Lâm có câu Đầu thượng viết Cao Đài. Chính tôi, khi viết Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926 (Huế: Nxb Thuận hóa 1996) cũng đã dẫn lại lời truyền lại đó (tr. 70-71)!
-
TÓC CÀI HOA SỨ
Mùa Vu Lan thường gọi là Mùa Báo Hiếu. Mùa này thường rộ lên những bài viết, bài thơ với đề tài “BÔNG HỒNG CÀI ÁO”. Những bài này luôn gợi lên tâm thức nhớ ơn tổ tiên cha mẹ. Đây là một truyền thống đạo đức có ính văn hóa rất cao.
Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, các chùa, các thánh thất tổ chức những chương trình cầu siêu cho thân nhân tín hữu quá vãng, kể cả cầu siêu thăng cho vô số chơn linh cõi âm chưa siêu thoát. Trong đạo Cao Đài hầu hết các Thánh thất Thánh tịnh đều tổ chức những buổi cầu siêu suốt tháng 7 gọi là lễ Trung Ngươn Thắng Hội.
-
Xuân thiên nhiên vẫn đến theo chu kỳ tứ quý. Thiên nhiên thuộc về nguyên lý tự nhiên [1] . Tự nhiên tức Đạo.
Thế nên, dù muốn, dù không, năm nào Xuân cũng đến.
Chật vật trong cuộc sống, hay bôn ba khắp chốn, ly hương; chợt thấy cành đào ướm nụ, nhà ai chưng mấy chậu mai; ngộ ra, không gọi, không mời Xuân đến âm thầm tự nhiên. Khách bèn hít một hơi dài. . . . khí Xuân man mác đâu đây?
-
Năm 1947, hai mươi năm sau khi bắt đầu tạo dựng Thánh Địa Tây Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc một hôm vui miệng có kể câu chuyện sau:
"Việc khai phá rừng già không phải là việc dễ. Nhơn công phải đương đầu với muôn ngàn nỗi gian lao khổ ải. Khó chịu nhứt là bệnh sốt rét rừng, chói nước. Chư tín hữu người Việt ở lục tỉnh lên làm công quả không chịu nổi với trận giặc rét này. Công quả được ít ngày thì các vị ấy lần lượt xin về hết. Nếu tình thế ấy cứ tiếp tục thì không biết khi nào mới khai phá xong khu rừng.
Nhưng may thay ! Ơn Trên chuyển số người Tần Nhơn (Cao Miên) đến làm công quả có đến vài trăm người. Họ là những người lực lưỡng, chịu nắng, chịu mưa giỏi lại quen với lối sống trong rừng nên làm việc đắc lực lắm. Có điều này đặc biệt là trong số hai trăm nhơn công ấy lại có một người là cốt của một vị Thần...
-
9. TU KỶ 修 己 – ĐÃI NHÂN 待 人
191. Xí giả bất lập, khóa giả bất hành. Tự hiện giả bất minh; tự thị giả bất chương; tự phạt giả vô công; tự căng giả bất trường. Kỳ ư Đạo dã, viết dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi. Cố hữu Đạo giả bất xử. [Đạo Đức Kinh, chương 24]
【Dịch】 Nhón chân lên, không đứng được. Xoạc chân ra không đi được. Tự coi là sáng nên không sáng. Tự xem là phải nên không hiển dương. Tự kể công nên không có công. Tự khoe mình nên không trường tồn. Về phương diện Đạo mà nói, đó là các thứ thừa thải. Có người ghét chúng. Nên người có Đạo không màng.
-
Nhìn lại lịch sử nhân loại song song với lịch sử các tôn giáo, ta thấy chỉ trong thời Tam Kỳ Phổ Độ mới có sự hi hữu là Đức Chí Tôn thân hành mở đạo phổ độ quần sanh.
Ngài là “Tột đỉnh” của “Nhất nguyên”. Sự lâm phàm của Ngài là tất yếu cho thời kỳ “Qui nguyên phục nhất” khi thế gian đã đến giai đoạn cực kỳ phân hóa và ở bên thềm thoái hóa. Nhưng không phải Ngài đến để tỏ ra hiện hữu mà đến để thể hiện và thực hiện trọn đủ cái phạm trù: “Thượng Đế - Đạo - Chúng sanh”.
-
“ . . .Thương thay cho nhơn loại trong thời kỳ mạt kiếp này, cộng nghiệp đến giờ nên dịch bệnh lan tràn làm dấy động cả hoàn cầu. Hãy trọn thành, lấy công năng thiền định sẵn có của mỗi chư đệ, muội mà tích cực gia công hành trì, nguyện hồi hướng cho chúng sanh trong lúc này nghe.
-
Ở nước ta, Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời. Từ khi nước ta bị xâm lược và sáp nhập vào Trung Quốc, từ đời Hán (206 trước Công nguyên đến 220 sau Công nguyên), Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II sau công nguyên) đã được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học ở nước ta. Trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần nước ta. Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo giành được ưu thế so với Phật giáo, chi phối đời sống tinh thần nước ta.
-
Tôi không biết cuộc đời, hay đúng hơn là cõi người tốt xấu thế nào mà từ các vị giáo chủ, các nhà hiền triết đến giới văn nhân, thi sĩ… ai cũng chê tuốt luốt! Các ngài bảo đời là bể khổ, là trường tranh đấu, là chốn bụi trần, là cõi phù du, là cõi tạm, là … đủ thứ không mấy ai ưa! Đặc biệt hơn cả, có vị thẳng thừng từ chối kiếp người nếu có cơ hội làm lại từ đầu:
"Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"
(Nguyễn Công Trứ)
-
Các ngươi có biết vì sao nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phải dùng bằng huyền diệu cơ bút của Tiên gia mà hoằng pháp khai giáo?
Lần nầy THẦY đến cùng chúng sanh bằng luồng quang điển ngự nơi mỗi người đã có sẵn Thánh linh mà dạy dỗ và ban truyền bí pháp.
Ta đến cùng các ngươi cũng bằng Thánh linh mà các ngươi chưa hề biết được. Hằng ngày các ngươi cùng Ta chung lộn, Ta hằng giúp đỡ cho các ngươi, nhưng các ngươi còn vô minh, nghiệp thức cảm nhiễm, danh sắc pháp trần quá rung động, nên che khuất Ta.
