Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Người Chăm theo hai tôn giáo chính là Bà la môn và Hồi giáo. Trong Hồi giáo lại chia ra Hồi giáo cũ (Bà ni) và Hồi giáo mới (Ixlam). Hai tôn giáo Bà la môn và Hồi giáo tồn tại độc lập, và trải qua quá trình lịch sử, đã hòa nhập với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một thứ tôn giáo địa phương. Ngoài ra còn một số ít người Chăm còn theo đạo Công giáo và Tin Lành. Trong quá khứ Phật giáo từng đóng một vị trí khá quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, tồn tại và phát triển song song với đạo Bà la môn từ đầu thế kỷ trước công nguyên đến thế kỷ thứ IX
-
Bài Tổng luận trích quyển "TÌM HIỂU TÔN GIÁO CAO ĐÀI" do CQPTGL xuất bản năm 2009, tái bản 2013
-
Đời sống của Chúa là yêu thương, là gần gũi với những trẻ thơ yếu đuối, những người nghèo hèn, những người tội lỗi, kể cả những con người ở tận cùng đáy của xã hội bị xã hội rẻ khinh như những cô gái lầu xanh, cũng đều được Ngài quan tâm giúp đỡ. Đặc biệt, trước “Lễ Vượt Qua”, tức là trước ngày Chúa tử nạn, Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ của Ngài để nhắc nhở các môn đệ thực hiện đức khiêm tốn trong việc phục vụ tha nhân, tức là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và thương yêu lẫn nhau bằng cách “rửa chân cho nhau”.
Ngài không chấp nhận việc sử dụng Đền Thánh là nhà của Cha làm nơi buôn bán, làm hang trộm cướp.
-
Luật tôn giáo nhằm nâng cao con người lên khỏi thân phận phàm phu tục tử, để trở nên thần thánh, tiên phật. Luật là khuôn vàng thước ngọc giúp chúng ta nâng cao giá trị của mình. Đức Cao Triều Tiền Bối dạy:
-
Đêm ấy trăng sáng, vừa mãn canh ba, bỗng nghe trên không có tiếng kêu lớn: Trả đầu cho ta. Phổ Tịnh ngước mặt nhìn lên mây, thấy một người cỡi ngựa Xích thố, cầm cây Thanh long đao, bên tả có một tướng mặt trắng khôi ngô, bên hữu có một tướng mặt đen râu quai nón, theo hầu.
Phổ Tịnh lấy đuôi chủ gõ vào cửa nói:
- Vân Trường ở đâu?
Hồn Vân Trường liền đáp xuống trước chùa, hỏi:
- Sư Cụ là ai? Xin cho biết pháp hiệu.
Phổ Tịnh đáp:
- Lão Tăng là Phổ Tịnh, khi trước nơi chùa Trấn Quốc, Quan Hầu quên rồi sao?
- Trước kia tôi nhờ ơn Ngài cứu cho, nay tôi đã thác, xin Ngài chỉ đường mê muội cho tôi.
- Nay Quan Hầu bị Lữ Mông làm hại, kêu lên: Trả đầu cho ta , thế còn Nhan Lương, Văn Xủ, sáu tướng qua năm ải, và biết bao nhiêu cái đầu khác nữa, họ đòi vào đâu?
Quan Công nghe Đại Sư Phổ Tịnh nói câu ấy thì chợt tỉnh ngộ, liền biến mất. Phổ Tịnh biết Quan Công hiển Thánh. (Viết theo truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa)
Khi Quan Công đã hiển Thánh rồi, Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến nay, Ngài không tái kiếp, mà dùng quyền hành thiêng liêng để lập công, đạt được Phật vị, gọi là Cái Thiên Cổ Phật.
Trong Đạo Cao Đài, Hội Thánh lấy ngày 24 tháng 6 âm lịch hằng năm làm ngày Đại lễ Vía Đức Quan Thánh. Khi đến ngày nầy, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều thiết lễ Đại đàn cúng Vía Đức Quan Thánh Đế Quân, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức của Ngài.
-
Tam Thánh ký hòa ước là ba vị Thánh ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá, để công bố cho toàn nhơn loại biết rõ.
Bản Hòa ước nầy được gọi là: Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước, tức là bản hòa ước thứ ba giữa Trời và người.
-
Chữ Tâm /
CHỮ TÂM
Huờn-Cung-Đàn, Tý thời, 14 rạng Rằm tháng 5 Ất-Tỵ (13-6-1965)
Thiện-Tài Đồng-Tử, Tiểu-Thánh chào chư Thiên mạng, chào chư liệt vị lưỡng ban. Chư liệt vị thành tâm tiếp điển Đức QUAN-ÂM BỒ-TÁT. Tiểu-Thánh xuất ngoại ứng hầu, thăng...
(Tiếp điển:)
Bần-Đạo chào chư hiền sĩ, chư hiền muội đẳng đẳng.
Thi
QUAN trường như áo mặc rồi thay,
ÂM chất người ôi! kíp tạo gầy,
BỒ liễu, nam nhân tua gắng chí,
TÁT nhơn tát phúc chốn trần ai.
-
Tiền bối Cao Triều Phát sinh ra trong một gia đình đạo đức, thừa hưởng tính cách nhân hậu của cha mẹ, nhất là của thân phụ là cụ Cao Minh Thạnh. Từ thuở còn thanh niên, cụ Thạnh đã là người của xóm làng. Lãnh trọng trách trong làng, xã, rồi lên huyện, tỉnh, cụ đem sức lực xây dựng quê hương Bạc Liêu. Việc làm lớn nhất là chiêu mộ dân về khai phá, mở mang vùng rừng hoang phía đông tỉnh Bạc Liêu, tổ chức đào kênh đắp lộ, xây dựng nên huyện Vĩnh Châu có kinh tế trù phú, văn hóa phát triển hơn các huyện khác trong tỉnh Bạc Liêu thời bấy giờ.(Sau năm 1975 huyện Vĩnh Châu nhập về tỉnh Sóc Trăng). Chẳng những có công khai phá, xây dựng huyện nhà, mà cụ còn là một viên chức địa phương thanh liêm, giàu lòng nhân ái, hết lòng chăm lo cho người dân còn nhiều khó khăn khi tới vùng đất mới này. Trước năm 1975 trên bản đồ chính thức của tỉnh Bạc Liêu có một con kênh khá dài chạy trên đất Vĩnh Châu mang tên Cao Minh Thạnh, ghi lại công đức người xưa đã góp phần khai sáng nơi đây.
-
Ngài Minh Thiện sinh tháng 8-1897 (năm Đinh Dậu) trong một gia đình đạo đức Nho giáo tại tỉnh Long An, làng Lợi Bình Nhơn. Thân phụ Ngài là ông Tôn Văn Thi, cũng là Minh Lý môn sanh , nhập môn ngày 02-9-1926, pháp danh Hiệp Nhứt. Thân mẫu Ngài là bà Lâm Thị Chợ
BÀI ĐĂNG NHÂN NGÀY GIỔ CỦA NGÀI ĐỊNH PHÁP TỔNG LÝ MINH THIỆN
16 THÁNG 11 Â, LỊCH
Ông thân Ngài là một Nho gia, tu theo phái Minh Sư, giữ công phá cách, siêng làm các việc phước thiện Ngài theo tân học cho đến khi ra làm việc với chánh phủ thời bấy giờ, được gọi là công chức chánh ngạch. Có thời gian Ngài ra làm việc tại Côn Đảo mấy năm. Ngài mục kích lắm chuyện đau thương, thấy nhiều người đau khổ đến độ muốn chết đi cho rãnh, mà chết đi cũng không được. Thấy rõ cuộc đời là bể khổ, sầu đau, nên từ đó Ngài đã hướng tâm chí mình về đường đạo đức.
-
CAO thượng bổn nguyên Đạo chí thành ,
ĐÀI tiền chực rước đám lương sanh.
GIÁO minh chơn lý truyền tâm pháp ,
CHỦ ý vào lòng ráng luyện phanh .
THẦY mừng các con. THẦY miễn lễ các con.a
(ĐTCG, 25 tháng 9 Bính Tý, 1936, CHỈ Ý THUYẾT MINH )
-
Trong một năm, mùa nào cũng có ý nghĩa, có cái quý, cái đẹp do sự chuyển hóa của thiên nhiên. Nhưng riêng Xuân, Xuân đến lúc khởi đầu một năm, khiến nhân gian thường hết lời ca tụng, đón chào.
Sự ưu ái đối với Xuân có lẽ không chỉ vì thời điểm tân niên của nó, mà bầu trời bao la xanh ngắt, ánh nắng dịu dàng, hơi sương man mát, cây cỏ xinh tươi đã khoát lên Xuân chiếc áo không gian ấp ủ sức sống đang vươn lên của vạn vật và mầm khởi sắc trong tâm hồn thế nhân.
-
Cách đây hơn 80 năm, khi Ðức Thượng Ðế hạ ngọn linh cơ lần đầu tiên tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tại thế gian này. Từ đó tòa Cao Ðài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Ðộ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Ðại Ðạo do bởi đặc ân của Thượng Ðế dành cho cơ cứu thế hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
