Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Tranh "Nhân nghĩa"Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (tỉnh Bắc Ninh)
-
Lâu nay chúng ta nghe nói đến hình thức "Quán thủ", nghĩa là cứ lấy chữ đầu của mỗi câu trong thi bài mà ráp lại. Nếu lần lượt ráp từ trên xuống dưới được gọi là "Quán Thủ thuận".
-
Đức Trần Hưng Đạo dạy tại Thiên Lý Đàn, Tuất thời mùng 10 tháng 04 Ất Tỵ (10.5.1965)
-
Nam Thành Thánh Thất, Tuất thời, Mùng 1 tháng Giêng Canh Tuất (6-2-1970)
(Bộ Phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý - Đ.Tử Thanh Căn)
THI
Sớm bể chiều non mỏi cánh đâu,
Chẳng ham vui cũng chẳng đeo sầu;
Thế nhân ai muôn cùng Ta dạo,
Trong tiết xuân trời tự tánh thâu.
BẠCH HẠC ĐỒNG TỬ, Tiểu Thánh chào đẳng đẳng chư vị Thiên sắc đạo tâm lưỡng phái đàn tiền. Nhân dịp xuân về, Tiểu Thánh vâng lịnh giáng báo tin có Đức Chí Tôn giá ngự, Tiện đây, Tiểu Thánh đề một câu thơ chúc xuân mới trần gian cùng toàn Đạo.
THI
Xuân thế phô bày vạn ý thơ,
Xuân tâm hiện tướng thuận Thiên cơ;
Xuân hoa nở rộ vườn xuân Đạo,
Xuân cả toàn linh trọn hưởng nhờ.
Vậy chư vị thành tâm nghiêm lễ tiếp giá, Tiểu Thánh xuất ngoại ứng hầu, thăng ./.
-
"Hãy tự biết mình" là lời khuyên có ý nghĩa rất sâu xa từ ngàn xưa của các bậc minh triết.
Đức Lão Tử sinh khoảng thế kỷ thứ VI trước CN, từng viết trong Đạo Đức Kinh (CH.33): " Tri nhân giả trí; tự tri giả minh." (Biết người là trí (khôn); biết mình là sáng suốt), nhằm đề cao đức tính tự biết bản thân, thành thật nhận định trung thực phẩm chất của chính con người mình, nên được gọi là "minh".Còn cái biết về kẻ khác là cái tri thức của giác quan hay kinh nghiệm, không cần có bản lãnh sáng suốt vượt trên tư ngã..
Triết gia Hy lạp Socrates (399 – 470 TCN) cũng nổi tiếng với phương ngôn "Hãy tự biết mình" và tự khẳng định rằng : " Có một điều tôi biết chắc chắn là tôi không biết gì cả", ý nói cái biết thế giới hiện tượng không phải là cái biết đích thật, tức không phải chân lý.
-
Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay.
-
Trong những kỳ lễ cúng Tứ Thời chúng ta đều có đọc kinh VÌ THIÊN ĐẾ do Đức Đạo Tổ dịch ra tiếng Việt Nam từ bài kinh XƯNG TỤNG CÔNG ĐỨC Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế viết bằng chữ Hán mà bên đạo Cao Đài đọc hằng ngày (Thái Cực Thánh Hoàng…). Nếu so sánh hai bài chữ Việt và chữ Hán, chúng ta thấy nghĩa lý hai bài giống y nhau. Tuy nhiên, bài chữ Việt có dư ra hai câu chót :
"Chi hơn an mạng thuận thời,
Vun trồng cây đức, lẽ đời vậy vay."
Cúng lâu ngày, đọc kinh thường xuyên, hai câu chót này đập mạnh vào tâm trí chúng ta. Chúng ta hãy đi sâu phân tích hai câu này, giải mã nó để tìm hiểu thêm ý nghĩa lời dạy của Đức Đạo Tổ gởi cho Minh Lý môn sanh chúng ta.
-
Đại Từ Phụ vì đức háo sanh đã khai mở Tam Kỳ Phổ Độ để cứu rổi các chơn linh hồi cựu vị. Và trong cơ tận độ kỳ Ba, nữ phái giữ một vai trò quan trọng.
Điều này đã được Đức Mẹ dạy:
Cuộc tiến hóa chu trình diễn tiến,
Tùy cơ duyên vận chuyển cơ mầu;
Cho dòng nước Đạo luân lưu,
Cậy tay nữ phái bắc cầu khai thông.
-
Ca dao Việt Nam có câu: “Tu đâu cho bằng
tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.”
Kinh Tứ Thập Nhị Chương có dạy: “…Cha mẹ
là vị Thần minh cao nhất trong các Thần minh.”
Kinh Đại Tập có đoạn chép: “ Gặp thời không
có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật.”
Qua đó, chúng ta thấy rằng đối với con cái, cha
mẹ phải được tôn kính như một vị Thần minh
cao nhất, vì cha mẹ không chỉ tạo cho con mảnh
hình hài mà còn nuôi dưỡng con thành người.
Cha mẹ là chiếc lá chắn an toàn che chở suốt đời
cho con. Do vậy, đạo làm con là phải giữ tròn chữ
hiếu. Con người thực hành được Hiếu đạo, chính
là tạo được công đức rất lớn.
-
Theo những tư liệu về báo chí Cao Đài còn lưu lại tại các thánh sở Đại Đạo hay của các nhà sưu tầm, thì báo chí Cao Đài đã ra đời rất sớm, ngay từ năm 1928, sau lễ Khai minh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vào năm 1926 tại Tây Ninh.
Tờ báo Cao Đài đầu tiên của tín đồ cao Đài là tuần báo L’ Action indochinoise (Hành động Đông Dương). Trong số ra mắt ngày 23.8.1928 đã đăng bài "A Propos du Caodaisme » (về đạo Cao Đài) của H.H. Và L’ Action indochinoise et le Caodaisme của Nam Đình (Hành động Đông Dương và đạo Cao Đài).
-
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Cao Đài giáo ra đời từ năm 1925-1926, cho đến nay đã trải qua gần 2/3 thế kỷ, thời gian cũng gọi là dài so với đời sống con người, nhưng so với những tôn giáo khác, Cao Đài còn rất trẻ. Từ đó đến nay, không kể đến những thăng trầm của cơ Đạo, tôn giáo Cao Đài đã phải chịu rất nhiều sự chê bai, chỉ trích, ngộ nhận của đủ mọi giới trong xã hội không kể lương hay giáo. Nhưng theo thời gian, với con số từ 500 000 tín đồ sau vài năm Đạo khai, lên đến trên 1 triệu tín đồ vào năm 1937 và đến nay hơn 5 triệu, Cao Đài giáo đã tự khẳng định được vị thế của mình trong vai trò một tôn giáo với đầy đủ ý nghĩa và quyền pháp.
-
Nói tóm lại trong buổi Long Hoa khai diễn trong những ngày cùng cuối của đời hiện tại là buổi biến động đều khắp trên thế giới, do cơ Trời vận chuyển để thực hiện một sự thay cũ đổi mới. Cơn biến động sẽ làm tiêu diệt những người đã bể vỡ lương tâm, không còn nguyên vẹn nhơn phẩm cũng như cac hột gạo bể vỡ không còn là hột gạo nguyên vẹn phải bị rơi rớt khi có cuộc sàng sảy lừa lọc gạo cội.
