Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
  • Khuyên con nhìn chơn lý đạo / Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn

    THÁNH THẤT BÌNH HÒA (Gia Định) Ngọ thời Rằm tháng 8 Đinh Mùi (18-9-1967) THỂ-LIÊN TIÊN-NỮ chào chư Thiên sắc, Chị mừng ...


  • Le Tao / Nguyen Ngoc Chau

    L’histoire dit que l\'empereur Fo-Hi regarda le Ciel, puis baissa les yeux vers la Terre, en observa les particularités, considéra ...


  • Ta không bảo các em chinh phục thiên hạ, mà bảo các em tự thắng các em và phục vụ ...


  • Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, mùng 7 tháng 6 Tân Dậu (8.7.1981) Quảng Đức Chơn Tiên: Mừng chư hiền hữu Thiên ...


  • Cao Đài Giáo hướng dẫn nhân sinh giải quyết cùng một lúc hai mặt Thế Đạo và Thiên Đạo trong ...


  • Đình làng - văn hóa Việt Nam / Sưu tầm từ danangpt.com.vn

    Thế kỷ XVIII, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một cụm kiến trúc nghệ thuật tôn ...


  • Chữ tu / Cao Triều Thiền Tâm bình giảng Th.giáo Đức Vạn Hạnh Thiền Sư

    Đạo ở trong người chẳng phải xa, Đừng đi tìm kiếm khắp ta bà, Tâm linh lúc ẩn khi bày hiện, Mặc mặc ...


  • Thánh thất an ninh / Đức Quan Thế Âm Bồ Tát

    Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 14 tháng Giêng Kỷ Dậu (2/3/69) ...


  • Lý đạo là xuân / Thiện Chí

    ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN, Bần Đạo mừng chư hiền đệ hiền muội. Bần Đạo đắc lịnh Tam Giáo Tòa đến khai ...


  • Nhìn và thấy nhau / Văn Hóa Phật Giáo - số19-2006

    . . .Trước kia ta nhìn mẹ nhưng lại chú tâm vào việc khác ngoài đời. Nay thì khi làm ...


  • Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh, Nhứt Trấn Oai Nghiên, hiện kiêm chức Giáo Tông Vô Vi ...


  • . . ."Vào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như nhau. Những kẻ nhiều tội ...


25/12/2014
Giáo sĩ Hồng Mai

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 25/12/2014

ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐẤNG CỨU ĐỘ



ĐỨC GIÊSU KITÔ ĐẤNG CỨU ĐỘ


Vào đêm 24-12-1925, Thiên Chúa đã dạy rằng Ngài đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây cách đây 2000 năm.
“Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên,
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên”


Hôm nay ngày Lễ Giáng sinh còn được gọi là ngày sinh nhật của Đức Giêsu Kitô. Hàng năm Giáo Hội Công giáo, môn đệ của Đức Giêsu Kitô khắp nơi trên thế giới đều tổ chức long trọng ngày lễ này. Đặc biệt, Giáo Hội Công giáo la-tinh mừng Lễ vào ngày 25 tháng 12, cũng là ngày những người thờ thần Mặt trời mừng “Mặt trời bất diệt”, có nghĩa là mừng Giáng sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng Giáo chủ của đạo Công giáo được gọi là “Ánh sáng thế gian”.

Khắp nơi trên thế giới, các nhà thờ, Thánh đường Công giáo, người người vui mừng đón Lễ Giáng sinh, ngày Giáng sinh trở thành lễ hội quốc tế, Giáng sinh là ngày vui của mọi người trên thế giới. Cùng chia sẻ với ngày vui này, người đạo Cao Đài cũng vui mừng như Kitô hữu. Bởi vì người đạo Cao Đài tôn kính các Đấng giáo chủ của các tôn giáo như một Giáo tổ. Hơn nữa, người Đạo Cao Đài đã được hấp thụ nền triết lý Cao Đài dung hòa và nền văn hóa hiếu hoà mà cha ông ta đã để lại từ ngàn xưa.
Hoàng đế nhà sư Trần Thái Tông đã nói: “người chưa sáng tỏ lầm phân biệt có nhiều giáo lý khác nhau, hiểu thấu được đến cùng thì giác ngộ một tâm. (Vị minh nhân vọng phân tam giáo, liễu đắc để đồng ngộ nhất tâm).
Hôm nay, Các Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh nhất là Thánh Thất Bàu Sen luôn long trọng tổ chức lễ kỷ niệm Ngài. Đức Giêsu thường giáng trần ban lời dạy bảo, Ngài nói: “Những tông đồ tại thế gian đang hướng về Ta, chư hiền nam nữ cũng đang hướng về Ta mà làm lễ. Ta ban ơn cho toàn thể loài người”.

1. ĐỨC GIÊSU – CON MỘT CỦA THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI
Vào mùa đông giá rét, là mùa vạn vật tàn tạ, hoa lá xác xơ, cây cỏ trơ cành héo úa. Những sinh hoạt của vạn vật dường như nghỉ ngơi, thâu liễm đợi chờ tiết xuân sang tam dương khai thới. Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng của trinh nữ Maria do huyền diệu của Chúa Cha, Ngài đã chọn nơi gia đình nghèo, tại cánh đồng hoang vắng, Đức Giêsu hài nhi nằm trên máng cỏ trong tiết đông tàn giá lạnh. Thế nhưng, muôn hoa vẫn nở, vạn vật vẫn hồi sinh, Thiên thần hát khúc ca vang loan báo tin mừng. Cái lạnh se sắt của mùa đông bỗng dưng ấm áp khắp trong mái nhà, máng cỏ của Bê-lem, miền đất Giu-đê thành David bên cạnh mẹ Maria và dưỡng phụ Giuse.
Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ giáng sinh trong chốn hồng trần, mây sầu ảm đảm, băng giá của vũ trụ như tan biến, nhường lại cho ánh sáng của cứu độ, của tình thương, của lẽ thật, của sự bình an.

Ta đến với một mùa đông đầy gió rét
Để hy sinh, để cứu rỗi cho nhơn loài
Ta lại đến trong cơn lửa bỏng dầu sôi
Để cất tiếng từng hồi gọi đàn chiên lạc lõng.
Chúa cứu thế muôn đời còn mãi sống
Sống muôn đời và sống mãi muôn đời
Việt Nam ơi, Hồng Lạc ơi!
Đấng Thượng Đế Đức Cao Đài đang ngự trị”


1.1. Sự lâm trần của Giêsu Kitô
Đức Giêsu Kitô là Con một của Thiên Chúa xuống thế làm người, nên Ngài vừa có bản thể của Thiên Chúa và là Người, Con Người viết hoa, Người thánh thiện. Đức Giêsu Kitô đã khẳng định địa vị làm con duy nhất của Ngài khi lâm trần. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi và không ai biết người con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người con và kẻ mà người con muốn mặc khải cho”. Đức Giêsu Kitô lâm trần để cứu độ. Cuộc đời của Ngài phải trải qua ba giai đoạn trong suốt hành trình cứu độ. Đó là giai đoạn Đức Giêsu Kitô sống để rao giảng, thực hiện sứ mạng cứu độ, giai đoạn Đức Giêsu Kitô hi sinh để cứu chuộc cho người cùng khổ nô lệ, và giai đoạn Đức Giêsu phục sinh để khẳng định sự sống đời đời của Ngài. Trong công cuộc cứu độ Đức Giêsu Kitô nhắm vào hai mục đích. Đó là thị hiện tôn nhan của Thiên Chúa và thực thi Thánh ý của Thiên Chúa.

Trước hết, Đức Giêsu Kitô thị hiện tôn nhan của Thiên Chúa cho nhân loại nhận biết Ngài qua đời sống của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa chính là bản thể vũ trụ, là Thượng Đế. Khi nhận thức về bản thể vũ trụ tôn giáo và triết học đã ra sức giải đáp, nhưng chưa có sự minh giải nào hoàn hảo, toàn diện. Con người chỉ có thể nhận biết được Thượng Đế trong tâm của chính con người và thông qua cuộc đời của các Đấng Giáo tổ. Hồng danh của Thiên Chúa có rất nhiều thuật ngữ xuất phát từ các tôn giáo, triết học, và dân gian. Dân gian gọi là ông Trời, là Thiên. Brama Đại Ngã của Ấn Giáo, Giavê của Do Thái giáo, Allah của Hồi giáo, Baha’i gọi Thượng Đế, Nho giáo gọi là Thiên Lý, là Thái cực, Lão giáo gọi là Đạo, là Vô cực. Triết học cho bản thể vũ trụ là Lý, Khí, Vô cực, Thái cực; Y học phương Đông cho Khí là bản nguyên của vũ trụ. Cao Đài gọi là Thầy, là Đại linh quang, là Chí Tôn, là Thượng Đế. Triết học Phật giáo thì cho rằng thế giới vũ trụ là do Duyên khởi mà sinh mà diệt. Do có cái này nên có cái kia, do cái này sanh diệt mà cái kia cũng sinh diệt, không do một tác nhân nào gây ra.

Trong quan niệm về Thượng Đế, về bản thể vũ trụ, dùng bất cứ thuật ngữ nào cũng bị giới hạn trong hạn hẹp của sự lý giải, không thể bao hàm hết được. Có thể nhận thức về Thượng Đế tương đối toàn diện khi con người có nhãn quan toàn diện và bao dung mới nhận thức được toàn diện về Thượng Đế từ tất cả các góc độ mới đạt được cái chung nhất, cái bao trùm. Thiên Chúa, Đấng Thượng Đế vốn bất khả kiến, bất khả tư nghị, bất khả tri, bất khả thuyết. Tuy nhiên, thông qua cuộc đời của Đức Giêsu Kitô con người có thể nhận diện tôn nhan của Đức Chúa Cha. Cuộc đời của Ngài gắn bó không ngừng với những hạnh phúc, những đau khổ của chúng sanh. Ngài đã chữa lành người bệnh về thể xác và cả tinh thần, Ngài dẹp tan sóng gió cho những ai lo sợ, Ngài làm bình an cho những người bị quỷ ám. Ngài làm cho người bại liệt được đi, người bệnh nan y được vượt qua, người mù được sáng, người câm được nói, người cùi được trở lại bình thường. Ngài còn răn dạy cho chư môn đệ cách sống như thế nào mới có thể gần được Thiên Chúa và được mọi người thương yêu. Trong đời sống của Ngài, Ngài thể hiện tâm-đức-hạnh và quyền năng của mình để độ dẫn các môn đệ. Ngài làm nên những tấm gương rất cụ thể để môn đệ noi theo.

Trước hết Ngài dạy môn đệ bài học Khiêm hạ. Trong Kinh Thánh kể lại như sau: “Bữa tiệc ly giữa Đức Giêsu và các môn đồ: “Đức Giêsu đã đứng dậy, rời bàn ăn, cỡi áo ngoài ra và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đỗ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy, người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với người: “Thưa Thầy! Thầy mà rửa chân cho con sao? Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh em chưa hiểu, nhưng sau này anh em sẽ hiểu”. Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Ông Simon Phêrô liền thưa: “Vậy thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân mà cả tay và đầu con nữa”. Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa, toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu”. Khi rửa xong Đức Kitô mặc áo vào, về chỗ mà nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật anh em: Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” . Ngài dạy hạnh hòa nhã, khiêm hạ không xét đoán người để khỏi bị xét đoán. Kinh Thánh có câu: “Hãy lấy cây xà trong mắt mình ra trước, rồi sẽ lấy cọng rơm trong mắt người khác”.
Đức Giêsu dạy môn đệ bài học lấy đức báo oán: “Đừng lấy ác báo ác, nhưng nếu ai vả má phải ngươi, thì hãy giơ má kia nữa; mà ai muốn kiện ngươi để đoạt áo lót, thì hãy bỏ cả áo choàng cho nó. Hãy yêu mến thù địch và khẩn cầu cho những kẻ bắt bớ các ngươi.” Ngài còn dạy các môn đệ hạnh khoan dung, tha thứ. Kinh Thánh ghi lại: “Một lần kia, Phêrô tiến lại nói với Ngài: “Thưa Ngài, nếu anh em xúc phạm đến tôi, thì tôi phải tha cho đến mấy lần? Có đến bảy lần không?” Đức Giêsu bảo ông: “Tôi không nói là đến bảy lần, mà là đến bảy mươi bảy lần”.

Đức Giêsu Kitô thể hiện quyền năng Thiên Chúa, thị hiện phép lạ qua câu chuyện Ngài cùng môn đồ lên thuyền ra biển GaliLée. Câu chuyện được viết như sau: “Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo người. Bổng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Ngài vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Ngài dậy và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin”. Rồi Người ngăn đe gió và biển, biển liền lặng như tờ. Người ta kinh ngạc và nói: “Ông này là người như thế nào mà cả gió và biển cũng tuân lệnh”.
Đức Giêsu Kitô suốt cuộc đời Ngài là tấm gương sáng cho môn đệ, Ngài không ngừng thể hiện tâm, hạnh, đức, và quyền năng để dạy dỗ và cứu độ, Ngài dạy cho môn đồ phải đạt được các đức hạnh như: Lòng yêu thương, bình an, nhẫn nhục, nhẫn nại, nhân từ, độ lượng, hòa nhã, chung thủy, khiêm tốn, trinh bạch, tiết chế, trung tín, không xét đoán, hiền hậu, tha thứ v.v..

1.2. Sự hi sinh trên Thập giá của Đức Kitô thể hiện tình yêu cao cả cứu chuộc tội lỗi con người và cứu độ con người trở về đường thiện.
Trong bữa tiệc cuối cùng với 12 tông đồ, đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho môn đệ và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. Rồi Người cầm ly rượu, dâng lời tạ ơn và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” Đến khi Đức Giêsu Kitô bị buộc tội do những lời thuyết giảng và tình yêu thương của Ngài đã chinh phục rất nhiều người theo Ngài và những việc làm cụ thể trong cuộc đời của Ngài như chữa bệnh và thể hiện đức hạnh, quyền năng, Ngài khẳng định Ngài là con Thiên Chúa. Từ đó, Ngài bị những người có thế lực thù ghét, họ quyết định ám hại Ngài. Để thực hiện kế hoạch, họ phải tìm cách công bố Ngài về tội danh do họ tự đặt ra. Theo lời vu khống kết tội của họ, Tổng trấn Philatô là người có thế lực của Rôma lúc đó, đã ra lệnh tử hình Đức Giêsu bằng hình phạt nặng nề nhất là đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Thập tự giá người Rôma dùng để hành hình những phạm nhân nô lệ. Thập tự giá được xem là sự đau khổ, ô nhục, sợ hãi và chết chóc. Trong lúc bị hành hình, Đức Giêsu vẫn thể hiện đức hạnh tha thứ, tình yêu cao cả và sự quyết tâm cứu độ nhân loại, Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Người đời sau dù là Kitô hữu hay người ngoại đạo cũng phải khâm phục, kính mến trước sự hi sinh của Ngài. Ngài là đỉnh cao của tình yêu vĩ đại đối với loài người. Thập tự giá thể hiện tình yêu cao cả, cái tuyệt đẹp của tâm hồn, đạt đến cùng đích của sự cứu độ quên mình vì người.

Lúc 12 giờ trưa mà trời lại tối sẫm như chia sẻ trước sự hi sinh cứu chuộc của Ngài. Trước khi mất, Ngài kêu lớn lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”, tức thì trời đất rung chuyển làm mọi người lo sợ và ngẫm nghĩ. Đúng thật là Con của Thiên Chúa.
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Giêsu đã khẳng định ý nghĩa về cái chết của Ngài.
“Dụng Con Một hi sinh trần thế
Chuộc tội chung toàn thể nhơn loài,
Thân Ta bao quản đắng cay,
Máu hồng chuộc tội cứu rày nhơn sanh
Thập tự giá thân đành chịu đóng,
Ta chết vì sự sống loài người,
Chết vì công nghĩa trên đời,
Chết vì sứ mạng Cha Trời phó giao
Ta chịu khổ máu đào chuộc tội,
Cho nhơn loài tự hối ăn năn,
Hồi tâm hướng thiện qui căn,
Trở về đạo chánh, hóa hoằng nhơn tâm” .


1.3. Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ sống lại từ cõi chết, là sự chiến thắng của tình yêu cao cả đối với nhân loại và Ngài là Đấng vĩnh hằng.
Giáo lý Cao Đài có dạy: “Bất cứ ước vọng nào cũng vô ích nếu không đạt được mục tiêu cứu rỗi cho nhơn loại” .
Đức Giêsu được mai táng. Ông Giôxếp , người thành A-ri-ma-thê cũng là môn đệ của đức Giêsu. Ông đến gặp Phitatô để xin thi hài. Ông Giôxếp lấy tấm vải gai sạch, liệm, đặt Ngài vào ngôi mộ mà ông đã đục sẵn trong núi đá. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mộ rồi ra về. Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô và đức Giêsu nói rằng: “Sau 3 ngày nữa sẽ trỗi dậy”. Vậy xin Ngài truyền canh phòng ngôi mộ cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Để tránh chuyện bịp bợm, ông Phi-la-tô bảo họ: “Các ông sẵn có lính đó, cứ đi mà canh phòng theo ý các ông”. Thế là họ ra đi canh phòng ngôi mộ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh. Quả nhiên, 3 ngày sau ngôi mộ trống. Thiên sứ báo tin: “Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi đến Galilé trước các ông. Ở đó, các ông sẽ thấy được Người”. Quả thật, 11 môn đệ đi tới miền Galilé đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người các ông bái lạy. Chúa Giêsu đến gần và nói với các ông: “Thầy đã được trao hoàn toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết đã làm nên lịch sử cứu độ nhơn loại. Khi Đức Giêsu về Trời, các Thánh tông đồ tiếp tục sứ mạng của Ngài.

2. ĐỨC GIÊSU KITÔ MỞ RA CON ĐƯỜNG MỚI

“ Cơ tận thế bày ra trước mắt,
Hỡi nhơn loài có gieo rắc được tình thương Ngày tái lâm Cha Ta đã dọn sẵn Thiên đường
Đưa tất cả đoàn chiên ngoan về đất Thánh”
Đức Giêsu Kitô xuống thế giúp cho con người nhận diện tôn nhan của Thiên Chúa và thực hiện ý chỉ của Thiên Chúa cứu độ nhơn loại và cứu chuộc tội lỗi cho dân nô lệ. Do bởi mang thân vị làm người nên phải chịu trong qui luật của tạo hóa. Cho dù bậc Giáo tổ đi nữa khi xuống hồng trần vẫn không vượt ngoài lẽ thành, trụ, hoại, không. Trước khi Đức Giêsu Kitô trở về nước Trời, để thị hiện tình yêu đối với nhơn loại và sứ mạng cứu độ. Ngài đã mở một con đường mới với mục đích cứu độ nhơn loại trở về Nước Trời và được hạnh phúc, bình an nơi thế gian. Ngài hứa là luôn luôn đồng hành với các môn đệ thực hiện sứ mạng cứu độ. Đến ngày nay con đường mới, thế giới mới Ngài thiết lập đã thành công.
Đức Giêsu Kitô vừa là Người, vừa là Thiên Chúa. Cho nên, Ngài vừa có bản thể Thiên Chúa, vừa có bản thể người. Nói về bản thể Thiên Chúa thì Ngài chính là Con một Thiên Chúa xuống thế, khi nói về Người thì Ngài là một vĩ nhân có nhân cách đạo đức lớn, có phẩm hạnh lớn, có tư tưởng lớn, có đủ quyền năng lớn và lớn cả về vĩ nghiệp cứu thế. Chính Ngài đã thành lập Đạo Ki-tô giáo tồn tại đến ngày nay qua: Chính thống giáo, Thiên Chúa giáo, Công giáo và Tin Lành.

2.1. Con đường mới đó là xây dựng thiên đàng tại thế gian.
Muốn xây dựng thiên đàng tại thế gian thì con người phải kính mến Chúa và yêu thương người.
Kính mến Chúa, chiều đứng của Thánh giá, con đường thẳng từ nhân gian đến thiên thượng, nghĩa là luôn gắn bó bản thân với Ngài, là hiệp thông với Ngài, hoàn toàn để Ngài làm chủ và hướng dẫn đời sống của mình. Đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài, niềm tin này đến từ Thiên Chúa và có từ tâm con người. Kính mến Thiên Chúa là niềm tin tuyệt đối, Ki-tô hữu phải thực hiện trong suốt cuộc đời tu hành của mình. Đức Giêsu Kitô dạy: “Kính mến một Đức Chúa Trời, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” . Ngài còn dạy: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” . Có kính mến Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô con người sẽ được gần gũi với Ngài và xích lại gần nhau hơn bởi ân điển của Ngài, con người thường cầu nguyện và chuyện vãn với đức Giêsu Kitô, tâm tình bằng tất cả sự kính mến và lòng tin phó thác, vì ai gỏ cửa cửa sẽ mở, ai xin sẽ được cho. Ân điển là món quà siêu nhiên và mầu nhiệm mà Chúa ban cho những ai kính mến Ngài. Ân sủng là quyền lực của Thiên Chúa sẽ tha thứ và chữa lành những bệnh tật về thể xác và tinh thần.
Người tín hữu Cao Đài cũng được như vậy, kính yêu Đức Thượng Đế, kính yêu Thầy, đặt trọn lòng tin nơi Đấng Chí Tôn. Thiên Chúa chính là Thượng Đế, Đấng Cao Đài, Đức Giêsu Kitô chính là Ngôi Lời, là Đấng cứu độ, là Đấng Giáo tổ. Thánh giáo Cao Đài có phán: “Lòng con tin Đấng Cao Đài/ Đạo đời Trời sẽ an bài cho con”.
Tóm lại, kính mến Chúa, kính yêu Đức Cao Đài, Ki-tô hữu cũng như người tín đồ Cao Đài có lòng tin vững vàng thì:
- Hãy xem sự vật hiện tượng thế gian chỉ là giả cảnh, là hữu hoại để nhận chân con đường của Thượng Đế đã vạch sẵn, là con đường duy nhất quyết tâm thực hiện để quay về.
- Nhận được sự ban ơn huyền nhiệm của Thượng Đế mà kết hoa lòng để kính dâng Ngài.
- Ý thức đi theo con đường của Thượng Đế, của Thiên Chúa với trọn cả lòng tin và phó thác để làm theo ý Ngài, giúp nhơn sanh đạt được hạnh phúc trần gian và vĩnh hằng ở nước Trời.
Yêu thương người là chiều ngang của Thánh giá, chỉ sự bình đẳng của đường thẳng, không chút cong quẹo, mất quân bình. Tượng trưng cho một tình yêu con người được thiết lập trong sự ngay thẳng, lẽ thật, công bình, hòa hiệp.Thiên Chúa là tình yêu nên yêu Thiên Chúa tức là yêu vạn vật con người.
Kính thưa quý vị, tình yêu thuộc về phạm trù của con tim, của tâm linh, nên dùng lời lẽ của thế gian ắt sẽ bị hạn chế và cũng không thể cân, đo, đong, đếm. Tuy nhiên, con tim có tiếng nói của nó qua cử chỉ, hành động; người được yêu có thể biết, người không được yêu cũng hiểu. Tình yêu là đề tài muôn thuở của con người, đã có biết bao sách vở viết về tình yêu, đã có bao bài thơ, bản nhạc ca ngợi tình yêu, con người sống và chết cũng chỉ vì hai chữ yêu thương. Đức Giêsu Kitô là Con một của Thiên Chúa đến thế gian để chỉ cho nhơn loại bốn chữ “Thiên Chúa Tình yêu”. Đó là chân lý trung tâm của giáo lý và cũng là một luật tối thượng của Đạo Thiên Chúa. Các điểm giáo lý khác cũng chỉ nhằm giải thích rõ thêm mà thôi. Thiên Chúa Tình Yêu được diễn ra ba mặt: Thiên Chúa yêu con người, con người yêu Thiên Chúa và con người yêu con người. Đức Giêsu Kitô vạch ra con đường tình yêu, đó là tình yêu rộng khắp. Đức Giêsu dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Người ta cứ dựa vào dấu hiệu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau” .
Tình yêu là trọng điểm để xây dựng thế giới đại đồng. Giáo lý Cao Đài cũng dạy “Tình yêu trên hết, cùng nghĩa với tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả và tình thương sẽ cứu chuộc mọi người tội lỗi, sẽ là liều thuốc thần đơn trị mọi bệnh tình của nhân loại”
Như vậy, tình yêu của Chí Tôn Thượng Đế không chỉ dành riêng cho ai, mà tình yêu bao la như đại dương, rộng lớn như nhựt nguyệt, không lãnh vực, không ranh giới, không thời gian, không gian. Đức Cao Đài dạy Ngài là Cha cả của sự thương yêu.
Bước sang lãnh vực tình yêu giữa người với người. Đức Giêsu Kitô dạy: “ Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em đang ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, cho mưa xuống trên người công chánh cũng như kẻ bất lương” . Tiêu chuẩn để nhận diện tình yêu là hy sinh và từ bỏ “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tánh mạng vì bạn hữu của mình” . Đức Giêsu Kitô đã hy sinh để cứu chuộc tội lỗi cho con người. Yêu Người là hãy cho cái mà tha nhân muốn nhận, hãy hiến dâng món quà thương yêu cho con người trong cuộc sống vô thường này. Đức Cao Đài có dạy:
“Thương nhau khác thể thương Thầy,
Ghét nhau khác thể ghét Thầy sao nên.”

Món quà tình thương chúng ta tặng cho nhau trong ngày lễ giáng sinh hôm nay là món quà vô giá. Đức Diêu Trì Kim Mẫu có dạy:
“Con hãy thương yêu kẻ ghét mình,
Thương đời mạt kiếp khó tồn sinh,
Thương thân cá chậu vòng oan nghiệt,
Thương phận chim lồng chốn nhục vinh
Thương kẻ tội tình chưa thức tỉnh
Thương người mê muội mãi u minh
Có thương con mới dày công quả,
Công quả là đường đến Ngọc Kinh”.


Đức Chúa Giêsu Kitô dạy: “Mỗi lần các con làm như thế (cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống…) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các con làm cho chính Ta vậy” . Giáo lý Cao Đài nói Hòa là cực điểm của tình thương. Đức Giêsu Kitô dạy: “Nếu các con dâng của lễ nơi bàn thờ, và sực nhớ người anh em có điều bất bình với con, hãy đặt lễ trước bàn thờ mà đi làm hòa với anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ” . Đức Thượng Đế dạy:
“Thương nhau tặng vật hiến dâng Thầy
Chẳng luận loài nào khắp đó đây,
Thương nhóm không quen nơi đất Bắc,
Thương đoàn lạ mặt chốn phương Tây
Dắt người đọa lạc về đường chánh,
Dẫn kẻ gian tà lại nẻo ngay,
Khôn, dại, ngu, khờ lo tận độ,
Thương nhau tặng vật hiến dâng Thầy”.


Hôm nay, ngày Lễ Giáng sinh, Ngài sinh nhật Chúa, chúng ta hãy tặng cho nhau những lời Chúa dạy trong Kinh Thánh để làm hành trang trên bước đường hoằng pháp độ đời. Bài thơ Tình yêu trong Kinh Thánh”.
Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người. Và của các Thiên Thần đi nữa, mà không có tình yêu thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe, xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn mới tiên tri, biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hoặc có cả đức tin mạnh đến nỗi chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, nhưng không có tình yêu thì cũng chẳng ích gì.
Tình yêu là nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang tự đắc. Tình yêu không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù. Không mừng khi thấy sự gian ác, không vui khi thấy điều chân thật.
Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tình yêu không bao giờ mất được, nhưng sẽ tồn tại muôn đời”. .

Tóm lại, Đức Giêsu Kitô mở con đường mới, điều đầu tiên là xây dựng thiên đàng tại thế gian, đó là đại đồng nhơn loại, là chiều nằm ngang của Thánh giá. Và điều thứ hai là Con đường Thiên đạo, đó là Thiên đạo giải thoát.

2.2. Con đường Thiên đạo
Con đường Thiên đạo thuộc phạm trù tâm linh, chiều đứng của Thánh giá, đó là thiết lập mối tương quan thường xuyên giữa Chúa và con người. Đức Chúa Giêsu Kitô là nhân vật trung tâm, tấm gương soi sáng, để Kitô hữu noi theo tiến hành các đức hạnh thuộc về Thiên đạo.
Thiên Đạo theo giáo lý của Ki-tô thuộc lãnh vực bình an, khiết tịnh, thánh hóa, chiêm nghiệm, tĩnh tâm, tỉnh thức, suy niệm, cầu nguyện và giải thoát. Thiên Đạo theo giáo lý Phật giáo thì thuộc lãnh vực của tâm, thiền định, giải thoát. Thiền định theo giáo lý Cao Đài thuộc phạm trù giải thoát, thiền định bao gồm hai phương diện tu luyện thân và tâm.
Thiên đạo là quá trình tu tập các phẩm hạnh để trở nên “giống Thiên Chúa”. Mỗi Ki-tô hữu thường xuyên gột rửa bản thân bằng cách thực hiện các phương pháp như Thánh tẩy, Thánh hóa hay bap-tem là “tắm”, “nhúng vào” lấp phủ hoàn toàn trong nước để thanh sạch, khiết tịnh tâm hồn. Ngắm nhìn, ngẫm nghĩ Thiên Chúa trong đức tin, lắng nghe lời Chúa, mến yêu Ngài trong thầm lặng. Điều chế ham muốn, tiết dục hoàn toàn để thiết lập mối tương quan, giao ước với Chúa nơi tâm mình. Để không bị lây nhiễm bởi phàm tục và cám dỗ. Những điều trên được thực hiện hữu hiệu thông qua cầu nguyện, chuyện vãn với Chúa thường xuyên để đạt được mục đích “Giống Thiên Chúa”.
Thiên đạo Đại thừa là mục đích duy nhất người tín hữu Cao Đài phải đạt được trong cuộc đời tu hành. Trong lãnh vực Thiên đạo, không thể tìm trong bài viết, sách vở và mọi phương tiện khác mà hiểu được. Vì Thiên đạo là sự mặc khải giữa “Trời và người” để con người đạt được mục đích rốt ráo đó là sự điểm đạo và đắc đạo. Chúng ta hãy nghe đây những bài thơ Thiên đạo, để khơi dậy sự hiểu biết về Thiên đạo Đại thừa.

“Có Khí ở, Thần bền thân vững
Thân vững vàng, tu chứng mới mong
Pháp luân thường chuyển giao thông
Sẽ tường Đạo thể viên dung chu toàn
Trong thế pháp, mở đàng pháp chánh
Ngoài cái tâm, pháp vật đều không
Đại Đạo bất nhị pháp môn
Là nơi cực lạc Thế tôn trị vì”

Thiên đạo hay Đạo pháp Cao Đài không là của riêng đạo Cao Đài, mà luôn mở cửa đón nhơn sanh giác ngộ, là con đường chung của nhân loại.

Dời non lấp bể khó chi đâu!
Sáu nẻo, bảy đường, gắng tóm thâu
Nhứt khí Hư vô bày vạn pháp,
Tam tâm ly tướng hiệp cơ mầu
Rừng Thiền lặng gió, muôn sao sáng,
Bể Thánh im hơi bóng nguyệt tàn
Tiến hóa là đường chung vạn thể
Thay phàm đổi Thánh có bao lâu”.


3. NƯỚC TRỜI – CÕI BÌNH AN

Theo giáo lý của Công giáo thì con người sau khi mất sẽ có ba trường hợp: Một, kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, hay còn gọi là đắc Đạo. Hai, chưa đủ khả năng kết hợp với Ngài cần phải tu luyện thêm. Ba, bị xa cách đối với Thiên Chúa.
Con Người khi còn ở thế gian sống và làm theo Thánh ý của Đức Giêsu Kitô sẽ được vào Nước Trời. Ngược lại, chống lại và phá vở công cuộc cứu độ và hại nhơn sanh sẽ bị vào hỏa ngục đời đời. Người không chống lại ý Chúa, nhưng chưa đủ công đức nên cần phải thanh lọc thêm, được đến nơi gọi là luyện ngục để về với Chúa.
Kính thưa quý vị, tất cả chúng ta sau khi rời khỏi trần gian này sẽ về đâu? Đây là câu hỏi, thật là khó giải đáp. Đời người thật là ngắn ngủi, mới ngày nào nam thì như Phan Nhạc, nữ thì nghiêng nước nghiêng thành, văn chương thi phú tài hoa rất mực. Vậy mà mới thoáng chốc thì tóc bạc da gà, ngựa trúc áo hoa, bệnh thấu cao hoang, vội tì m thuốc linh đan cứu chữa. Nhưng vô thường đã đến thì làm sao cưỡng lại bây giờ! Đó là những giai đoạn mà một đời người phải trải qua không một ai thoát khỏi, cho dù Giáo chủ, Giáo tổ, đạo sư tất cả mọi người trên thế gian đều như nhau trước định luật của vũ trụ.
Theo giáo lý Cao Đài cũng như Thiên Chúa giáo, sau khi chết con người mong ước được về Nước Trời, Nước Thiên Chúa, về Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung. Giáo lý Phật giáo gọi là Niết bàn, và các tôn giáo khác cũng về nơi Đức Thượng Đế ngự.
Nước Trời – Nước Thiên Chúa là nơi trường sanh bất tử, là nơi siêu vượt thời gian mang tính vĩnh cửu, cũng là cái đích điểm của người tu muốn đến. Đặc điểm của cõi Trời là lâu dài, trường tồn không bị thay đổi theo thời gian và không gian, không lệ thuộc vào quá khứ, hiện tại và vị lai, không nằm trong vòng luân hồi sanh tử.
Khi Đức Giêsu Kitô hoàn thành sứ mạng, Ngài mất trên thập tự giá, lúc ấy Ngài trở về với Đức Chúa Cha. Đến khi Đức Giêsu Kitô phục sinh trở lại, đó là lúc Ngài trở thành Đấng Cứu thế trong tâm hồn con người trần thế.
Đức Giêsu Kitô dạy:

“Khắp vũ trụ một đèn Chơn lý,
Khắp loài người một thủy nguyên thôi,
Song trong phép nhiệm của Trời,
Những điều tội phước do nơi mình làm”

Đức Chí Tôn dạy:
“Con là một Thiêng liêng tại thế,
Cùng với Thầy đồng thể Linh Quang
Khóa chìa con đã sẵn sàng,
Khi vào cõi tục, khi sang Thiên Đình”.
[. . .]

Những tín hữu của Đạo Cao Đài khi tu hành đắc Đạo, đã ghi lại những bài thơ diễn tả cõi Trời và kêu gọi đến vườn đào, đến cõi Trời để tham dự Yến.
Đức Quán Pháp Chơn Tiên dạy:
“Thầy ban ngôi báu chốn Hư Cung,
Triệu ức huyền công phép lạ lùng;
Trùng điệp kỳ quan nhìn bất tận,
Hằng hà vị thánh đến cùng không.
Nguy nguy Bạch Ngọc Tòa Tam Giáo,
Diệu diệu Huỳnh Kim sắc Cửu Trùng,
Rực rỡ hào quang soi vạn dặm
Tường vân tô đậm cõi Thiên cung”


KẾT LUẬN
Kính thưa quý vị, Đức Giêsu Kitô là Con một của Thiên Chúa xuống thế gian làm Người. Sự lâm trần của đức Giêsu Kitô để thực hiện hai mục tiêu. Đó là thị hiện tôn nhan của Thiên Chúa qua cuộc đời của Đức Giêsu Kitô. Kế đến là Ngài thực thi Thánh ý của Thiên Chúa, đến trần gian để cứu chuộc tội lỗi cho con người và cứu độ nhân loại trở về đường thiện. Đức Chúa Giêsu dùng cái chết của mình để thể hiện tình yêu đó là sự hy sinh cao cả của Ngài. Sự phục sinh của Ngài từ cõi chết minh chứng sự chiến thắng của tình yêu cao cả đối với nhân loại; và Ngài là Đấng vĩnh hằng. Ngài sống trở lại nhằm mục đích chỉ dạy những tông đồ của Ngài vững tin, tiếp tục con đường cứu độ của Ngài.
Đức Giêsu Kitô mở một con đường mới với hai mục đích xây dựng Thiên đàng tại thế gian, đó là kính mến Chúa và yêu con người. Ngài dạy con người phải thực hành Thiên đạo bằng cách cầu nguyện, tĩnh tâm thiền định. Nước Trời hay nước Thiên Chúa, là cõi bình an, là nơi mà những người làm theo ý Chúa sẽ được vào nước Trời, những người chưa đạt được sự cứu rỗi của Chúa thì sẽ tiếp tục thanh sạch nơi luyện ngục. Những ai chống lại ý Chúa sẽ đời đời nơi hỏa ngục. Đức Giêsu Kitô tiếp tục sứ mạng của Ngài trong Tam Kỳ Phổ Độ.

“Ngày tận thế cũng là ngày tận khổ,
Ta chiết thân đến độ khắp nơi nơi;
Cha Ta dựng Đài Cao cao ngất tuyệt vời,
Và rúc tiếng còi, gọi tất cả con người về đất Thánh
Bỏ mùa đông giá lạnh
Đón ánh sáng yêu sinh;
Việt Nam thanh bình! Thế giới thanh bình”

                                                                                                                   ***


TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Thánh giáo sưu tập, Nxb. Tôn giáo, 2010.
2. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy Ban giáo lý Đức tin, Tiểu ban từ vựng, “Tự điển Công giáo”, Nxb. Tôn giáo, 2011.
3. Thánh Thất Bàu Sen, “36 bài Thánh giáo của Đức Giatô và các Thánh, lưu hành nội bộ, 2005.
4. Nhóm phiên dịch các Giờ kinh phụng vụ, “Bốn sách Tin mừng”, Nhà xuất bản tôn giáo Hà Nội, 2006.
5. Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, “Lời Chúa cho mọi người”, Nxb. Tôn giáo, 2009.
6. ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm, “ Đạo yêu thương”, Nxb. Tôn giáo, 2014.

Noel Giáp Ngọ - 2014
Giáo sĩ Hồng Mai

Biết đạo ai ơi biết lẽ Trời,
Đừng nên mong vọng chuyện xa khơi,
Tu nhân kết quả nhân hành thiện,
Tích đức công dày đức độ đời.

Đức Đại Đồng Tổng Lý , Huờn Cung Đàn, 01-4 nhuần Quý Mão, 22-5-1963

Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


Hãy gửi góp ý của bạn tại đây