
"Đức Thượng Đế đến Khai Minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề Hoát khai Đại Đạo để cứu độ vạn linh lại là một hi hữu khác".

Huyền vi bí mật Tạo-Đoan đã cho một tánh-chất ly-kỳ bí mật , là khôn-ngoan hơn Vạn-Vật, do khôn-ngoan ấy mà tìm hiểu rằng cả cơ thể Tạo-Đoan có hai đặc-điểm trọng-yếu: - Một là sống - Hai là linh Biết được hai đặc-điểm ấy, thấy nhơn-loại có hai chủ-hướng: Một là nương với cái sống của mình, cho cái sống là hệ-trọng tức-nhiên là học-thuyết cơ-thể Taọ-Đoan của đời, hai là nương theo tinh-thần nhơn-loại, nương theo triết-lý nầy cho cái Linh là trọng-hệ, vì cớ nên xu-hướng theo phần hồn là Tinh-Thần thường tại. Bây giờ chia theo hai lẽ ấy. Sống tức là Đời Linh tức là Đạo

Với sự xuất hiện của Cao Đài tại cái nôi Việt Nam, không chỉ Tam Giáo truyền thống được phát huy và đổi mới thành Tam Giáo Đạo (Tam Tông), mà còn có sự xác lập một vị thế mới cho dân tộc Việt Nam trên diễn đàn tư tưởng, văn hóa đạo đức của nhân loại năm châu. . . .

Nhắp chén trà sen vị ngạt ngào, Hương xuân nồng ấm thú tiêu dao, Kìa hoa hoa nở vì ai đó, Theo luật sinh tồn Đấng tối cao.
Đạo Cao Đài qua mắt nhìn của Mục sư Victor L. Oliver /
Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa: văn hóa Trung Quốc; văn hóa Ấn Độ, và văn hóa Pháp. Ông cũng không quên nói rằng sự ra đời của đạo Cao Đài còn do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. . . .
Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa: văn hóa Trung Quốc; văn hóa Ấn Độ, và văn hóa Pháp. Ông cũng không quên nói rằng sự ra đời của đạo Cao Đài còn do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. . . .

... Nhưng điều kỳ lạ là cái sinh vật nhỏ bé này từ ngàn xưa đến ngàn sau không bao giờ ngớt cảm nhận có một sự gần gũi mật thiết giữa bản thân với vũ trụ, không ngớt tìm hiểu mối tương quan với vũ trụ, không ngớt đối chiếu con người với vũ trụ để tìm ra một nguyên lý chung, những qui luật chung của sự sinh thành, hiện hữu và tiến hóa của vũ trụ và con người.

Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.

Đức Chí Tôn và các hàng Phật Tiên Thánh Thần đồng giáng thế bằng linh điển, diễn giải những bí ẩn của Càn-khôn vũ trụ, từ hữu vi đến vô hình để chúng sanh có đầy đủ đức tin nơi Thượng Đế và biết được con đường tiến hóa trên những nấc thang vũ trụ, hầu học đạo giải thoát, khỏi luân hồi vào những thế giới đọa đày đau khổ. Do đó có thể nói Đại Đạo đang mở cửa Càn-khôn để tận độ chúng sanh.

Tam Thánh ký hòa ước là ba vị Thánh ghi chép bản Thiên Nhơn Hòa Ước lên tấm bảng đá, để công bố cho toàn nhơn loại biết rõ. Bản Hòa ước nầy được gọi là: Đệ tam Thiên Nhơn Hòa ước, tức là bản hòa ước thứ ba giữa Trời và người.

Thánh tượng Thiên Nhãn của đạo Cao Đài hiện ra lần đầu cho người đệ tử đầu tiên thấy được là Ngài Ngô Minh Chiêu tại Dương Đông , Phú Quốc vào năm 1921. Ngài Ngô trực nhận đây là mặc khải của Đức Thượng Đế để chọn tượng thờ cho Đạo. Ngài họa lại Thiên Nhãn là hình con mắt trái rất uy nghiêm để tôn thờ và ít lâu sau truyền lại cho đồng đạo.

Một trong những đặc điểm của Cao Đài giáo là Đấng Giáo Chủ vô hình vì thế biểu tượng thờ kính cũng khác các tôn giáo đã hiện diện trước kia. Nguồn gốc từ đâu Cao Đài giáo dùng Thiên Nhãn làm biểu tượng thờ kính và ý nghĩa là gì?

Vào năm 1927, trong một đàn cơ tại Cần Thơ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã cho một bài thơ rất đặc biệt: Linh tiêu nhất tháp thị Cao Đài Đại hội quần tiên thử ngọc giai Vạn trượng hào quang tùng thử xuất Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai