Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
  • THẮP ĐUỐC ĐẠI ĐẠO ĐỂ GIEO NIỀM TIN SIÊU VIỆT CAO ĐÀI Đức Chí Tôn khai đạo đã hơn 80 năm, ...


  • Cách đây đúng 12 năm, thời điểm lịch sử của sự ra đời của Khối Liên Giao các Hôi Thánh ...


  • Tu hành / Dương Thanh

    Chúng ta theo lẽ thường tình hay dùng từ Tu Hành để chỉ các vị chức sắc tôn giáo cùng ...


  • Thần thể / Sưu tầm

    Theo Phật giáo, Thần thể là hiện thân của những vị Bồ Tát (sa. bodhisattva) siêu việt, nói chung là ...


  • Quan niệm của Lãn Ông về Thận có rất nhiều điểm tương tự với những khái niệm mới mẽ nhất ...


  • Lễ sanh / Huỳnh Văn Trọng Minh

    “Lễ Sanh là người có hạnh, lựa chọn trong chư môn đệ mà hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi ...


  • Qua một kiếp Ngài giáng trần bên Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường, Ngài đã để lại cho hậu ...


  • Thân gởi tất cả anh chị em toàn Cơ Quan, Cơ Quan vừa trải qua một thử thách hết sức nặng ...


  • Dòng sông uốn khúc qua bao thác ghềnh, đón nhận mọi nguồn nước đục trong, nhưng không bao giờ dừng ...


  • Lòng vị tha / Huệ Chơn

    Những bậc Vĩ Nhân danh lưu thiên cổ đó toàn là những người có một nội lực vị tha phi ...


  • Ngay từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện ở Việt Nam, mà bấy giờ ...


  • Tấm lòng của nhân loại / Nhịp cầu giáo lý

    Những biến động trên thế giới trong những năm gần đây khiến người ta suy nghĩ về nguyên nhân sâu ...


24/12/2006
Thiện Hạnh

Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009

Đức Giê_Su Ki_Tô Trong TKPĐ

ĐỨC GIÊ-SU KITÔ

TRONG TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Thiện Hạnh

Đức Giê-su Kitô giáng sinh hai ngàn năm trước đây tại Jérusalem đã khắc ghi dấu ấn cứu độ vô cùng vĩ đại với hơn một tỷ môn đồ Thiên Chúa giáo khắp thế giới cho đến ngày nay.

Đức Giê-su Kitô đã tái lâm vào thế kỷ thứ hai mươi để góp tay cùng Đức Chúa Trời hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thánh địa Việt Nam. Nhân ngày kỷ niệm trọng đại hôm nay, thiết tưởng việc ôn lại các thánh huấn của Đức Giê-su Kitô trong Tam kỳ Phổ độ, là một điều rất có ý nghĩa.

1.  ĐỨC GIÊ-SU KITÔ GIÁNG SINH


Đức Giê-su Kitô đã thọ nhận sứ mạng từ Đức Chúa Trời giáng sanh tại Bethléhem, thành Jérusalem hai ngàn năm trước đây. Ngay sau đó, Ngài được Cha -không-sinh và Mẹ Maria dời đi Ai Cập để lánh nạn theo lời báo mộng của Đức Thánh Linh. Đến khi vua Hérode băng hà, Ngài được đưa về Galilée, thành Nazareth thuộc Israel. Tại đây, Đức Giê-su Kitô đã thâu nhận mười hai vị môn đệ đầu tiên. Nhân dịp giáng điển tại Hườn Cung Đàn kỷ niệm giáng sinh năm Mậu Thân (1968), Đức Giê-su Kitô đã mặc khải một cách khái quát sự hạ trần của Ngài và việc thâu nhận mười hai vị môn đồ đầu tiên như sau:

"Vậy giờ nay, Ta giá lâm phàm trần chứng lòng mến kỉnh của chư Tông đồ, Ta quay lại dòng đời xuất hiện của Ta lúc vừa thoát thai cho đến ngày thành Đạo để cho chư môn đồ làm một kỷ niệm lúc khêu lại danh Ta, cho đúng lời truyền tụng vì từ xưa lưu lại nơi Thánh Kinh, cũng còn chỗ chưa rõ ràng như thử. Đây chư Tông đồ nghe kỹ.

Ta lúc ban sơ, Mẹ Ta là Maria, Cha-không-sanh Ta là Joseph. Lúc Mẹ Ta vừa hứa hôn cùng Cha, bấy giờ Mẹ Ta vì cảm hóa Đức Thánh Linh mà thọ thai. Cha-không-sanh Ta biết đặng, lòng người phân vân nhưng Cha-không-sanh Ta là người công nghĩa, không bao giờ bêu xấu cho Mẹ Ta; nhưng lòng Cha-không-sanh Ta vẫn đắn đo. Một hôm, Đức Thánh Linh báo mộng cho Cha-không-sanh Ta biết rằng: Mẹ Ta thọ thai bởi cảm hóa Đức Thánh Linh thành hình, sau này sanh ra một trai, người sẽ đặt tên là Jésus. Người này sau cứu khổ nạn tội tình dân tộc Ta. Điềm báo mộng này thật thế. Sau Mẹ Ta sanh rõ ràng, Cha-không-sanh Ta người mới đủ đức tin để nuôi dưỡng Ta như thế. Khi Ta được thoát thai có một ngôi sao sáng từ trên Trời sa xuống. Những nhà thông thái ở vùng cận đông xứ này nhìn thấy, bèn tìm đến thành Jérusalem  mà hỏi Vua Hérode rằng: Chẳng hay xứ này có Vua dân Do Thái vừa xuất hiện, chẳng biết nơi đâu tìm đến để thờ lạy Ngài. Khi Vua Hérode nghe tin này cả quần thần xứ Jérusalem đều bối rối; Vua bèn truyền các nhà thông thái đi tìm. Thoảng nhiên những nhà thông thái liền đi vào nơi Bethléhem thấy Ngôi sao trước mặt, lần từ từ đi đến nhập vào nhà liền gặp Mẹ ta cùng Ta; các nhà thông thái bèn sụp xuống quỳ lạy và dâng báu vật, đoạn rồi Đức Thánh Linh mách bảo rằng: Các ngươi phải tìm đường mà về xứ, đừng trở lại thành Vua Hérode mà phải mang tai.

Lúc ấy Vua Hérode lòng tham vô hạn, biết rằng: đã có Thánh Linh hạ trần nên tìm cách hủy diệt. Lúc này Đức Thánh Linh báo mộng cho Cha-không-sanh Ta dời Ta cùng Mẹ Ta qua nơi xứ Ai Cập (Egypte) để tựa nương chừng nào được tin báo mộng sẽ trở về.

Lúc ấy Vua Hérode bèn truyền lịnh bắt nhi đồng nam để diệt trong xứ này không ít, cố ý để sát hại Ta. Đó là lòng người như thử, lòng trời đâu thế, Ta bởi Đức Thánh Linh con một mà ra. Sau thời gian trôi qua, Cha-không-sanh, và Mẹ Ta cùng ở nơi Ai Cập (Egypte).

Lúc bấy giờ, Vua Hérode đã băng thì Cha không sanh Ta được Đức Thánh linh báo hiệu dời Mẹ cùng Ta trở về, nhưng lúc này con Vua Hérode là Archélaus kế vị nên Đức Thánh Linh truyền Cha-không-sanh Ta đưa Ta về xứ Israel liền chuyển qua Galilée nơi thành Nazareth, vậy nên sau này người gọi Ta là dân Nazareth. Ta bèn ở đây ngày tháng trôi qua, Ta lần lượt đã lớn lên đi theo bờ biển Galilée để xem phong cảnh tùy cơ mà truyền Đạo. Như thế từ lâu các Tông đồ của Ta đã thâu thập nhị. (…) Ta kể đây chư Tông đồ ghi nhận:

Trước kia Ta đi dài theo bờ biển Galilée gặp hai người đang đánh lưới đầu tiên tên là Simon và André, Simon tức là Pierre người môn đồ thứ nhứt của Ta mà cũng là người chối ta ba lần trước khi gà trở canh. Khi Ta gặp hai người đang đánh lưới thì Ta bảo rằng: các ngươi hãy theo Ta để Ta truyền nghề này rất có lợi cho đời mà trước tiên có lợi cho các ngươi. Hai người bèn hỏi thì Ta bảo hai người theo Ta, Ta truyền nghề đánh lưới người cho các ngươi. Hai tông đồ bèn đồng ý theo Ta để truyền tin Chúa Thánh Linh là Đấng Cứu Thế lâm phàm cứu dân tộc, cứu cả mọi người tin Ta. Đây là hai anh em ruột mà cũng là nhứt nhì môn đồ của Ta.

Kế tiếp lần lượt cũng bờ biển này Ta sang gặp ba cha con người đang vá chài, Ta liền bảo hai người con rằng: Hai ngươi phải theo Ta, Ta truyền nghề này rất có lợi nhiều hơn nghề của các ngươi đang làm. Hai người liền bỏ Cha theo Ta tức là Jacques và Jean anh em ruột là con của Zébédée. Đó là bốn môn đồ đầu tiên, lần lượt Ta thâu môn đồ kế tiếp, thứ 5 là Philippe, 6 là Barthélémy, 7 là Thomas, 8 là Mathieu, 9 là Jacques; Jacques là con của Alphée, 10 là Thaddée, 11 là Simon (Simon là người xứ Canaan), 12 là Judas; Judas tức là Iscariot là người đã phản Ta."[1]

2.  ĐỨC GIÊ-SU KITÔ TÁI LÂM

Lịch sử đạo Cao Đài đã khắc ghi một sự kiện vô cùng trọng đại đó là đêm Noel năm Ất Sửu (1925), Đức Chúa Trời đã chính thức tuyên xưng hồng danh và thâu nhận tam vị gồm quí Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang làm môn đệ Cao Đài đầu tiên. Ngài dạy:

"Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo đạo Nam Phương.

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,

Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên;

Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. (…) Bấy lâu, Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai Đạo."

Đức Giê-su Kitô cũng chính là Chơn thần của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần lập nên Thánh đạo trong gần hai ngàn năm trước đây. Ngày nay, Đức Giê-su Kitô trở lại trần gian, tạm mượn danh xưng là Cao Đài. Ngài dạy:

"GIA TÔ GIÁO CHỦ, Tá Danh CAO ĐÀI. Ta ban ân lành chung chư chúng sanh Tông đồ, kể từ ngày giá lâm đến nay gần hai ngàn năm tròn, thế hệ trải qua bao thời kỳ chuyển Đạo, các Tông đồ đã hết lòng chiêm bái, dẫu cho Đạo quá xa xăm truyền đến; giờ này khắp thế gian Âu-Á đều ca tụng lễ mừng Ta."[2]

Trong Tam kỳ Phổ độ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Đức Chúa Trời đến thánh địa Việt Nam để khai minh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nhằm phục hưng chơn truyền Tứ giáo do các hàng Giáo chủ, cũng là hiện thân của Đức Thượng Đế giáng trần lập Đạo trong Nhị kỳ Phổ độ như: Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử và Đức Giê-su Kitô. Đức Chúa Kitô xác tín:

"Trong Nhị kỳ Phổ độ thì Đức Thích Ca cùng Ta hay là Lão Tử, Khổng Tử cũng thế đồng một nhiệm vụ chấn hưng chơn truyền phục hưng tôn giáo. Cũng như thời hạ nguơn này tôn giáo chơn truyền đều bị thất lạc, nên Đức Thượng Đế là Chúa Trời dùng huyền cơ diệu bút mà khai Đại Đạo cứu thế."[3]

Các hàng Giáo chủ đã đồng loạt giáng trần phò tá Đức Thượng Đế. Nhân dịp nầy, Đức Giê-su Kitô đã nhắc lại lời tiên tri nơi Kinh Thánh về sự tái lâm của Ngài sau hai ngàn năm. Tuy nhiên, sự trở lại trần gian của Ngài lại không giống như trong Nhị kỳ Phổ độ, mà được thị hiện qua cơ bút. Đức Giê-su Kitô dạy:

"Giờ kỷ niệm, hai ngàn năm sắp mãn, theo lời tiên đoán ngày xưa còn nêu rành Cựu Ước. Nay gợi lại để Thiên sứ, Sứ đồ, gợi sưởi lòng ôn lại những điều tiên tri trên mặt luật: Vì trong hai ngàn năm, Ta sẽ tái lâm hạ thế, nhưng ngày nay Ta đến thế gian như kẻ trộm. Đó là điều tiên đoán ngàn xưa, nay nhắc lại để chứng minh cho đời biết. Cũng như bao con chiên Ta đã đón tiếp và chờ mong ngày xuất hiện, lòng man mác đương trông mõi. Nhưng Ta đã đến thế gian từ bao giờ, lòng con chiên chưa nhận thức. Đó là vì màn bí mật trùm bao, luật Thiên điều hé màn cho biết. Nhưng đặc tính của con chiên vẫn còn đang tầm nơi không trung vị sứ thần xuất hiện, đang mong mõi săn đuổi để đón rước Ta bằng tấm lòng tin tưởng, nhưng quên xem lại điều ghi sau những lời Cựu Ước: "Đời mạt hạ, Ta hạ thế bằng linh điển để đem con người trở về đường hướng thiện để giải tỏa xích xiềng cho bản thân được thanh thỏa thân tâm, tu tầm vị cũ. Vì ngày Ta đến thế gian là ngày những tôi trai tớ gái đã nói những lời tiên tri như Ta hiện nay."[4]

Do Đức Giê-su Kitô giáng lâm bằng thiên điển, vượt ngoài giới hạn suy tưởng của nhân loại vì đã không theo qui luật của định lệ ngày xưa. Do đó, không ai nhận biết được sự giáng lâm của Ngài. Đức Giê-su Kitô dạy:

"Kìa đoàn chiên Ta đang tỏ lòng hiếu đạo, chờ đón sự xuất hiện của Ta ở lúc nguơn cùng thế tận. (…) Sự hiện diện của Ta chuyển qua giai đoạn tá danh nơi trần nào phải hình hài như Jésus Do Thái, mà bằng linh điển rọi xuống khắp Nam bang."[5]

Đức Giê-su Kitô đã đúc kết sự tái lâm giáng thế sau hai ngàn lăm như sau:

"Giờ hai ngàn năm sắp cận kề vượt mức, bao nhiêu sự tin tưởng của tông đồ đã trút hết vào đây quyết cùng Ta tương hội để xây dựng lại Thánh môn mà lời xưa còn lưu ký. Bao nhiêu điều lưu lại tuy hầu mãn pháp huyền nhưng lòng tin tưởng vô tan, hiện thời chư Tông đồ Ta đã đón tiếp Ta trong tinh thần trọng đại. Nhưng luật Thiên điều đã định, lời tiên đoán không sai. Vì Ta sẽ đến thế gian, mà ngày Ta đến như kẻ trộm, nào biết để đón tiếp hình Ta. Như thế, chư Tông đồ vẫn miệt mài nhìn trên ảnh tượng để tưởng tượng vào tâm, trông nhìn nơi giữa cõi không trung để đón nhận hình hài Ta xuất hiện. Giờ, Ta đã đến từ lâu, vừa bán kỷ, dụng danh từ khác hẳn ban cho Nam bang tiểu quốc để xây dựng cảnh Thiên đàng. Đó là luật Thiên điều."[6]

Đức Giê-su Kitô đã giáng lâm trong Tam kỳ Phổ độ bằng thiên điển qua huyền diệu cơ bút. Những dòng thánh huấn của Đức Giê-su Kitô truyền dạy chính ngôi Lời của Ngài vậy.

"Ta đến, Ta là Đấng cứu rỗi và là Người phán xét các con. Như vậy ngày xưa, Ta đến với các con Israel lạc loài. Ta mang chân lý đến và làm tan biến vô minh. Các con hãy nghe Ta: Cơ bút, như trước kia là ngôi Lời của Ta."[7]

Đức Giê-su Kitô cũng phán rằng:

"Chơn Thần Thượng đế, ấy Cha Trời,

Khai Đạo kỳ ba cứu độ đời;

Kinh Thánh tiên tri ghi chép rõ,

Ngày nay ứng hiện chẳng sai lời.[8]

3.  THỰC HÀNH SỰ THƯƠNG YÊU

Đức Giê-su Kitô đã rao giảng về tình yêu thương, mà trước tiên là giữa con người với nhau. Tình yêu thương đó thể hiện một cách vô điều kiện, giống như tình thương của Đức Giê-su Kitô hay Đức Chúa Trời ban phát đồng đều đối với toàn thể con cái của Ngài. Điều nầy có nghĩa là sự thương yêu không đặt trên căn bản của mối quan hệ qua lại hữu cơ, mà hơn thế nữa là phải thương yêu vô điều kiện, thương những kẻ ghét chúng ta. Đức Giê-su Kitô dạy:

"Đây Ta cũng nhắc lại những lời dạy của Ta khi xưa với các Tông đồ rằng: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con vậy. Và các con hãy yêu thương những kẻ ghét các con và làm ơn cho những kẻ bắt bớ vu cáo các con để xứng đáng là con của Cha trên trời. Là Đấng đã làm cho mặt trời mọc, soi người lành người dữ, làm mưa xuống cho người công chánh và người tội lỗi."[9]

Đức Giê-su Kitô nhấn mạnh rằng sự thương yêu không phải là biểu tượng để con người sùng kính, tôn thờ; mà sự thương yêu chính là nghĩa vụ và bổn phẩn của con người tại thế gian. Ngài dạy:

"Ta muốn bảo thương yêu là cái gì thuần khiết, du lưu trong mọi thời không, trong mọi sự kiện, chớ không phải tôn ngôi thương yêu lên Thần Thánh cách biệt con người và vạn loại. Quả thật, Ta không bảo chư hiền hằng ngày bái lạy sự thương yêu mà không thực hành thương yêu."[10]

Trong Tam kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế cũng không dạy điều gì khác hơn. Ngài dạy môn đệ Cao Đài không những phải thương yêu lẫn nhau mà còn phải thương yêu cả những kẻ ghét mình. Có như thế, chúng ta mới thực hành trọn vẹn sự thương yêu, mới xứng đáng là đứa con yêu quí của Ngài. Đức Thượng Đế dạy:

"Thầy đã từng dạy các con: Thầy sanh trưởng bảo tồn các con. Thầy đến nước Việt Nam này mở Đạo dạy dỗcác con, Thầy không đòi hỏi các con làm những gì đem lại riêng tư cho Thầy, Thầy luôn luôn dạy các con phải thực hành đạo lý cho các con cái của Thầy, nghĩa là phải giác ngộ cho nhau, thương yêu dạy dỗ, đùm bọc cho nhau, bảo tồn cho nhau để cùng được sống trong cảnh thái hòa, cùng hưởng hạnh phúc với nhau mãi mãi, chớ không được thù hằn ganh tịghen ghét hại nhau rồi tự diệt nhau, vì các con là một trong vạn vật chúng sinh mà vạn vật chúng sinh là bản thể của Đạo, mà bản thể của Đạo tức là bản thể của Thầy. Các con thương nhau tức các con đã thương Thầy. Nếu các con ghét nhau, thì chính là các con ghét Thầy. Có phải vậy không các con? Thầy đã nói:

Thương nhau khác thể thương Thầy,

Ghét nhau khác thể ghét Thầy sao nên!

Các con ơi!

THI:

Thương nhau tặng vật hiến dâng Thầy,

Chẳng luận loài nào khắp đó đây;

Thương nhóm không quen nơi hướng bắc,

Thương đoàn lạ mặt chốn phương tây.

Dắt người đọa lạc về đường chánh,

Dẫn kẻ gian tà lại nẻo ngay;

Khôn dại ngu khờ lo tận độ,

Thương nhau tặng vật hiến dâng Thầy."[11]

Yêu thương đối với những người không có mối liên hệ với nhau đã là một việc khó khăn, hà huống chi là thương những kẻ ghét mình lại là một việc khó khăn gấp bội. Tuy nhiên, Đức Giê-su Kitô buộc chúng ta phải thực hành sự thương yêu không phân biệt, vì đây chính là tiền đề để xây dựng cõi thiên đàng tại thế gian.

4.  BÍ TRUYỀN CỦA THÁNH ĐẠO

Đức Giê-su Kitô đã nhắc lại bí truyền của Thánh Đạo trong thời kỳ truyền đạo hơn hai ngàn năm về trước.  Đây chính là sự tuyệt thực để thanh tẩy trong thời gian bốn mươi ngày và thực hiện sự thông công tiếp điển giữa Ngài và Đức Chúa Trời. Chính sự lặng lẽ tịnh khiết nơi chỗ thâm sâu nhất của nội thể là nơi hội ngộ với Đức Chúa Trời. Khi ấy, Đức Giê-su Kitô chính là hiện thân của Đức Chúa Trời tại trần gian và Ngài đã thực hiện quyền năng và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời nơi thế gian. Ngài xác tín như sau:

"Chẳng phải Thánh Đạo khi xưa của Jésus không dạy những bí truyền. Tại vì lâu ngày chơn truyền sai lạc. Khi Ta giáng thế đúng tam thập niên đến thọ pháp Baptême với Jean Baptiste, Jésus phai tuyệt thực đúng bốn mươi ngày để khỏi bị ma quỉ cám dỗ. Biết bao điều đến làm cho Ta xiêu lòng ngả dạ nhưng nhờ Đức Cha Trời chiếu điển lành, Ta được trọn thân tâm mới đi ra truyền Đạo. Mỗi khi Ta trắc ẩn điều nào thì Ta cũng đi nhập tịnh một lúc để tiếp điển mới hiểu thấu chơn truyền của Cha Ta chỉ giáo."[12]

Đức Giê-su Kitô cũng đã nhắc lại phần vô vi chơn đạo, hay là phần hình nhi thượng học của Thánh Đạo. Hình nhi hạ học nhắm đến việc xây dựng hội thánh, kiện toàn mục vụ để xây dựng cõi thiên đường nơi trần thế. Phần hình nhi thượng học chính là bí pháp tâm truyền để giúp con người giải thoát tâm linh và phối kết cùng Thiên Chúa đời đời bất tử. Ngài dạy:

"Về phần vô vi Chơn Đạo, từ khi sanh tiền, Ta có dạy các môn đồ Ta một lý huyền diệu khéo léo nầy: Là một khi Ta cùng tông đồ cỡi thuyền đi ra biển Galilée, Ta đang nằm mê man ngủ thì thuyền lại bị sóng gió ba đào sắp nhận chìm thuyền. Các Tông đồ chừng ấy mới nhớ đến Ta, đánh thức Ta dậy. Ta liền bảo: Biển sóng gió ôi, hãy lặng yên đi! Tức nhiên biển lặng tức thì. Lý ấy là Tâm con người, như biển lòng, hễ gặp việc gì trở ngại như sóng gió ba đào cần phải giữ đức tin, đánh thức tâm linh, bảo biển lòng hãy lặng an thì mọi sự yên ổn vậy."[13]

Đức Giê-su Kitô cũng không quên nhắc nhở người môn đệ Cao Đài cần phải trau luyện tâm linh, công phu thiền định nhằm trở thành một bộ máy chí linh để Đức Thượng Đế có thể bố hóa sử dụng trong công việc cứu độ chúng sanh trong kỳ mạt kiếp. Đức Giê-su Kitô dạy:

"Đến ngày hôm nay, (…) nền Đại Đạo Cao Đài cứu thế buổi Hạ Nguơn cùng cuối thì chư môn đồ nữ nam muốn hữu dụng ngày tương lai thì phải cố công kềm tâm định tánh, tịnh luyện nguơn thần, trau sửa bản thân cho thành một bộ máy tinh vi. Hầu sau, ngày cùng cuối để Thiêng Liêng mượn xác hữu hình sử dụng ngày bình quang tam nhựt. Ấy là ngày Đại Đồng phán xét thế gian đó."[14]

5.  VẠN GIÁO ĐỒNG NHỨT LÝ


Nhân một dịp giáng điển tại Hườn Cung Đàn năm Bính Ngọ (1966), Đức Giê-su Kitô ban ơn bài thi xưng danh, trong đó khẳng định Tứ giáo gồm: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và Kitô giáo (hay Gia Tô giáo)  đều cùng chung một nguồn gốc, một xuất phát điểm. Tứ giáo nói riêng, vạn giáo nói chung đều cùng phát sinh từ một nguyên lý tuyệt đối, tạm gọi là Đạo hay Đại Đạo. Ngài dạy:

"Thích, Nho, GIA, Lão vẫn đồng nguyên,

Chung sức TÔ nên đạo thống truyền;

Hoằng hóa GIÁO dân tin Chánh pháp,

Tự cường CHỦ động gội ơn Thiên."[15]

Do Tứ giáo hay vạn giáo đều cùng chung một điểm khởi nguyên là Đạo, đều xuất phát từ Đức Thượng Đế; thì lẽ tất nhiên vạn giáo cũng sẽ trở về chỗ qui nguyên là Đạo, là Thượng Đế hay Đức Chúa Trời vậy. Trong bài thi xưng danh khác, Đức Giê-su Kitô xác nhận:

"Thích Nho GIA Lão một đường về,

Chánh tín TÔ bồi thoát muội mê;

Độ thế GIÁO dân tùy mỗi xứ,

Một Trời CHỦ tể khắp tư bề."
Thiện Hạnh

Thầy dành cho trẻ một mùa xuân,
Đi lại trần gian xóa khổ trần,
Như lý Đạo mầu đang cứu cánh,
Cho đời thuần túy nét thanh tân.

Đức Chí Tôn, Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ, 08-02-1967

Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


Hãy gửi góp ý của bạn tại đây