Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Cơ Đạo cấp thiết, đại cuộc lớn lao, cần có những đoàn người hy sinh, hiến dâng cho mục đích ...
-
“Có cái có trong tình tạo hóa, Không là không đạo cả lưu hành, Biết đường sanh diệt, diệt sanh; Hoàn nguyên phản ...
-
Ngày 13-03-Giáp Thân, kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô, chúng ta đọc lại lược sử của Ngài.
-
TÓC CÀI HOA SỨ ...
-
Cao Đài là một nền đạo hướng tới những yêu cầu bức bách cứu khổ nhân sinh trong phạm vi ...
-
Nhân ngày lễ kỷ niệm tái thiết Vĩnh Nguyên Tự Rằm tháng 3 Âm lịch (01-5-2007)NCGL trân trọng giới thiệu ...
-
Các ngươi có biết vì sao nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phải dùng bằng huyền diệu cơ bút ...
-
Trước hết, chúng ta có thể mạnh dạn khẳng định thực tế “đa dạng tôn giáo ở Việt Nam”. Những ...
-
Đức Vô Cực Từ Tôn: "Kìa con ! Đời đang loạn lạc, người người mong vọng hòa bình, tôn giáo đang ...
-
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy : “......Tôn giáo là những khuôn vàng thước ngọc để khép con người từ chỗ ...
-
NỮ GIỚI VỚI NỮ HẠNH A. Nữ phái đồng sứ mạng với nam phái. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy : "Hỡi ...
-
Vào năm 875, một vương triều mới xuất hiện tại vương quốc Champa cổ : Vương triều Indrapura, do vua ...
Kim Trinh
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009
Tôn sư trọng đạo
Ngày còn nhỏ, chúng ta thường được ông bà, cha mẹ dạy rằng: "Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra."
Hay:
"Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc
đi.
Con người ta có khác gì,
Học hành dốt nát ngu si hư đời."
Ý tưởng về việc nếu không được đi học sẽ trở nên dốt nát thật đáng buồn, và hàng ngày, ta thường thấy các trò nhỏ vui vẻ cắp sách đến trường. Hình ảnh này thật ấn tượng đối với trẻ thơ. Tuổi trẻ chúng ta lúc bấy giờ chỉ nghĩ đến một điều duy nhất là: Làm người phải học. Lớn lên một chút nữa, được đi học, chúng ta biết thêm rằng:
Không thầy đố mày làm nên,
Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy.
Yêu kính thầy mới làm thầy,
Những phường bội bạc sau này ra chi.
Như vậy, chúng ta đã hiểu được rằng: Người đang đứng trên bục giảng, đem hết tâm huyết để truyền đạt kiến thức cho hết thế hệ này đến thế hệ khác, chỉ dẫn cho ta vô số điều ta chưa hề biết người đó ta gọi là thầy. Cho nên chúng ta dặn với lòng rằng mình sẽ không là người bội bạc sau này.
Đạo lý trọng ơn người thầy dạy dỗ đã khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta, nhất là đối với những người đã từng là đệ tử Nho gia.
Làm người, mang nặng ơn sinh thành dưỡng dục, thì bổn phận làm con đối với cha mẹ, ta gọi là đạo hiếu. Còn đối với người thầy dìu dẫn khai sáng đời ta, dạy cho chúng ta bao điều hay lẽ thiệt, cho chúng ta thành đạt sau này, thì bổn phận của người học trò đối với thầy cũng là Đạo: "Tôn sư trọng Đạo."
Hình ảnh của người thầy đối với trò thật thiêng liêng cao quý, nên khi gặp thầy cô, các trò khoanh tay cúi chào trình thưa, vâng dạ, khi thầy vào lớp học trò đứng dậy chào… Tất cả cử chỉ thân thương này trở thành một phản xạ tự nhiên của trò đối với thầy.
Làm người, trừ những bậc thánh nhân sinh nhi tri, có ai trong chúng ta không từng bước chân đến trường mà có được những kiến thức, những hiểu biết trong nhiều lãnh vực để có thể thi cử, đỗ đạt thành danh với đời.
Do đó, học đường là môi trường đào tạo con người cả tài lẫn đức, mà thầy là người trực tiếp nhận lãnh sứ mạng cao quý này.
Chúng ta muốn biết một quốc gia tiến bộ văn minh như thế nào, ta cứ nhìn nền giáo dục của xứ ấy.
Mỗi chúng ta, sau nhiều năm miệt mài trên ghế nhà trường, đến khi rời khỏi học đường, những kiến thức đã thâu thập được nơi trường học, sẽ chấp cánh cho ta vào đời. Mỗi thành công của ta trên đường đời là kết quả của biết bao công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Cuộc đời lôi cuốn chúng ta với quá nhiều hệ lụy, có mấy ai rảnh rỗi ôn lại quảng đời qua, nhớ lại thời niên thiếu mà nghĩ đến ơn thầy, dù rằng ai cũng biết: Không thầy đố mày làm nên.
Nhưng nếu có dịp nào đó, đi ngang qua ngôi trường xưa, chắc hẳn chúng ta không khỏi chạnh lòng. Có một cái gì đó làm cho ta cảm động đến nghẹn ngào.
Ý niệm về người thầy không đóng khung trong trường lớp, mà bất kỳ ai đó, đem lại cho chúng ta kiến thức, chỉ dẫn cho ta điều hay, người đó là thầy ta. Người xưa dạy rằng: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư (Một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy).
Hay là: Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên (Ba người cùng đi, ắt hẳn có người là Thầy ta).
Nếu có một người tốt, ta sẽ học được nơi người này điều hay, người đó là thầy ta, điều này đúng rồi. Còn nếu có một người xấu, làm những điều không hay, thì đó lại là bài học cho ta xa lánh. Nghĩ cho cùng, họ cũng là thầy ta.
Như vậy, chung quanh ta, từ trong gia đình, bạn bè, học đường, ngoài xã hội, biết bao nhiêu người đem điều ích lợi cho ta, thậm chí cho ta nhiều bài học hay, những người này là thầy ta đó.
Như vậy, trong đời ta, có biết bao nhiêu người mà ta phải mang nặng nghĩa ân. Nho gia đã sắp hạng: Quân; Sư; rồi đến mới tới Phụ.
Kinh Sám Hối dạy rằng: Trên lo báo tứ ân trọng đại. Làm người chúng ta mang nặng ơn trời đất háo sanh, ơn xã hội, ơn thầy khai sáng và ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục. Cuộc đời tràn đầy ân nghĩa như vậy, chúng ta có còn thì giờ đâu mà nghĩ đến những điều hơn thua giành giựt.
Ý niệm về người thầy cũng không phân biệt tuổi tác. Điều này thấy rõ ở môi trường đại học. Trò lớn tuổi hơn thầy là chuyện bình thường, nhưng dù tuổi tác giữa thầy trò có chênh lệch nhau bao nhiêu đi nữa thì thầy vẫn cứ là thầy.
Chuyện xưa kể rằng, đời nhà Nguyên bên Tàu (đời nhà Trần bên ta) đây là thời phong kiến trọng nam khinh nữ, nữ giới không được đi học, có một thiếu nữ 16 tuổi, con nhà quan, tài học xuất chúng, cải dạng nam trang lên kinh kỳ ứng thí. Nàng đỗ trạng nguyên và được vua mến tài trọng dụng, phong làm binh bộ thượng thư sau thăng đến thừa tướng. Ở địa vị thừa tướng, vị trạng nguyên trẻ tuổi này thường được nhà vua giao cho nhiệm vụ chánh chủ khảo các kỳ thi tuyển chọn nhân tài. Các kỳ thi nối tiếp nhau, các vị tân khoa, dù có người tuổi đã cao, đáng bậc cha chú đều xem nàng là vị ân sư.
Ở Việt Nam, người dân Việt thấm nhuần giáo lý Nho gia, nên vị trí của người thầy rất được trân trọng. Mãi đến ngày nay, Chu Văn An đời nhà Trần vẫn là khuôn mặt người thầy được người đời sau kính trọng. Làm quan cuối đời Trần, đời Trần Dụ Tôn, đảm nhiệm dạy ở Quốc Tử Giám trong một triều đình đầy dẫy nịnh thần. Thất trảm sớ của Chu Văn An không được vua chấp thuận, ông từ quan trở về quê ở núi Chí Linh mở trường dạy học. Học trò của ông hàng hàng lớp lớp thành danh, đạo đức luôn ngời sáng xứng đáng là môn đệ của Chu gia. Ngoài tài học uyên thâm, và một đức độ hơn người, Chu Văn An còn là một nhà giáo bản lĩnh, không sợ chết, đã hiên ngang giữa chốn triều đình xin chém đầu bảy nịnh thần và từ chối lịnh vua ban phải trở lại Quốc Tử Giám làm chức vụ xưa.
Tháng 3-2003 tại Hà Nội, Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội đã tổ chức trọng thể lễ đúc tượng các danh nhân văn hóa Việt Nam. Bốn danh nhân văn hóa Việt Nam được dựng tượng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám gồm Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và Chu Văn An (được gọi là Quốc Tử Giám tư nghiệp). Các vị danh nhân này có công phát triển nền giáo dục Nho học Việt Nam và có công sáng lập trường đại học đầu tiên của nước ta: Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngày 19-5 (nhân kỷ niệm ngày sinh Hồ Chủ Tịch), Hà Nội đã khánh thành trọng thể lễ yên vị bốn bức tượng này. Công trình đúc tượng đồng bốn vị danh nhân do các nghệ nhân làng nghề Ngũ Xá thực hiện nằm trong một loạt công trình hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
Pho tượng các vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông cao 1m 45, nặng 1,05 tấn, pho tượng tư nghiệp Chu Văn An cao 3m30, nặng trên 3 tấn.
Người xưa, muốn được đi học phải miệt mài gian khổ, tầm sư học Đạo. Soán từ quẻ Sơn Thủy Mông dạy rằng: "Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã."
Phỉ: chẳng phải; Đồng mông: học trò. Câu kinh văn này có nghĩa là: Không phải thầy cầu học trò, mà trò phải cầu thầy, cho dù trò ở ngôi cửu ngũ, đạo lý này nếu không được tôn trọng, bị đảo lộn thì việc học sẽ không có kết quả.
Ngày xưa, Nguyễn Bỉnh Khiêm được vua nhà Mạc là Mạc Đăng Dung trọng dụng. Ông đỗ trạng nguyên và được vua phong là Trình Quốc Công nên được gọi là Trạng Trình. Ông được vua giao trọng trách dạy thái tử Mạc Phúc Hải, vị thái tử đầy kiêu ngạo, luôn luôn có một lũ nịnh thần vây quanh. Những người này luôn luôn bày kế cho Thái Tử hãm hại thầy mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm với tài học uyên bác, đức độ hơn người, luôn vững vàng trong tư thế người thầy. Tuy nhiên dù là bậc đế vương, vua nhà Mạc cũng không giữ chân được bậc nhân tài. Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm mãi về sau này vẫn là người đem tài cao đức trọng truyền dạy cho các hàng tiếp nối. Các trạng nguyên Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan tài giỏi đều là môn sinh của Trạng Trình.
Một tình thầy trò sâu đậm nhất, nặng nghĩa tình đạo lý vẫn là tình thầy trò của vị Vạn Thế Sư Biểu và các môn sinh của mình.
Hơn 25 thế kỷ trôi qua, Đức Khổng Tử đã để lại cho hậu thế một tấm gương đạo đức sáng ngời, một tình sư đệ thanh cao và một nền giáo lý làm khuôn thước mẫu mực trong việc trị quốc tề gia.
Khi xưa, học đến cuộc đời của Đức Khổng Tử, chúng ta thường lấy làm tiếc cho các vị vua ở các nước mà Đức Khổng đã đi qua. Tiếc vì các vị vua này, người mải lo chinh chiến, người lo ăn chơi sa đọa, có người lại sợ Đức Khổng Tử đức trọng tài cao lấn áp quyền của mình chăng, nên họ không trọng dụng Ngài. Rốt cuộc Đức Khổng Tử phải trở về quê hương mở trường dạy học lúc tuổi đã về chiều. Các môn đệ của Ngài nối tiếp nhau, người ra làm quan, người nối tiếp sự nghiệp giáo dục của Ngài.
– Ra làm quan: thì đây là những vị quan thanh liêm làm sáng danh môn đệ Khổng gia.
– Mở trường dạy học đào tạo hàng tiếp nối: nhờ vậy mà Nho học được lưu truyền đạo mạch đến ngày nay.
Suy cho cùng, có lẽ chúng ta nên cám ơn các vị vua này không biết trọng dụng Đức Khổng Tử. Bởi vì nếu được trọng dụng, Ngài sẽ bận rộn trên quan trường, làm gì hậu thế chúng ta có được một bộ kinh Dịch hoàn chỉnh và một kho tàng giáo lý đậm đà luân lý tình người.
Đối với Đức Khổng Tử, các môn đệ tôn sùng Ngài như Thái Sơn Bắc Đẩu. Tình sư đệ có khác gì tình phụ tử. Có một lần, một vị quan hỏi Tử Lộ rằng Đức Khổng Tử là người như thế nào? Tử Lộ giận lắm, ngoảnh mặt, không thèm trả lời vì nghĩ rằng thầy mình đức trọng tài cao như vậy mà không biết hay sao?
Một lần nữa, trong lúc chạy loạn ở nước Trần, nước Thái. Thầy trò lạc mất Nhan Hồi. Sách chép rằng vì Nhan Hồi sức khỏe không tốt, không theo kịp bạn. Đức Khổng Tử buồn rầu lo lắng vì nghĩ là Nhan Hồi đã chết. Đến khi gặp lại Nhan Hồi, Đức Khổng Tử rất mừng, Nhan Hồi nói rằng: "Thầy chưa chết, Hồi đâu dám chết."
Một người học trò khác đau nặng, bịnh lây lan, mọi người bạn đi thăm, chỉ đứng ngoài nhìn, không ai dám đến gần. Đức Khổng Tử đến thăm, nắm tay ân cần an ủi.
Đến khi Đức Khổng Tử mất, các môn sinh cất nhà bên mộ để tang thầy ba năm. Tử Lộ, Tử Hạ để tang thầy sáu năm.
Ôi! Một bậc Thánh Nhân, bậc Thầy của ngàn vạn năm sau, đứng trong hàng Tam Giáo Đạo Tổ trong thời Tam Kỳ, đã từng khóc khi học trò của mình chết mà than rằng: "Trời đã làm chết ta rồi, Trời đã làm chết ta rồi." (Thiên táng dư, Thiên táng dư.)
Người xưa trọng Thầy, trọng Đạo như vậy, nhờ đó giáo lý Nho gia đã được truyền dạy nhiều ngàn năm nay.
Giờ đây, thời kỳ văn minh vật chất tiến bộ, vấn đề đạo lý đã nhạt nhòa đi rồi. Tình thầy trò ngày nay có còn đẹp đẽ như xưa không? Ngày nay, học trò có nhu cầu đi học, cứ nghĩ rằng có tiền bạc sòng phẳng với người dạy mình là đủ rồi. Quan niệm của người đi học đời này giản dị như vậy thì làm gì có nghĩa ân. Chẳng có nghĩa ân thì làm gì có đạo lý.
Người ta đã mất niềm tin vào thanh thiếu niên của thế hệ này, và người ta nghĩ rằng tiền bạc có thể mua được đủ thứ, kể cả việc xen vào chi phối môi trường giáo dục.
Làm sao chúng ta có thể tìm lại một tình thầy trò cao đẹp nối tiếp truyền thống tôn sư trọng Đạo. Ngày nào chúng ta cũng thấy nhan nhãn cảnh trò hại thầy qua các phương tiện truyền tin. Người ta cố vực dậy một tình sư đệ như ngày xưa.
Biểu ngữ Tiên học Lễ, Hậu học Văn được đặt một nơi trang trọng nhất ở các trường học. Trong chương trình học, các trò đã được dạy về đạo hiếu, thờ cha kính mẹ, dạy lịch sử nước nhà cùng cội nguồn dân tộc, dạy cả môn công dân giáo dục ….
Ngày 20-11 đã được chọn là ngày tôn vinh Nhà Giáo. Trong ngày này, thầy cô giáo nhận được từ học trò các bông hồng thật đẹp. Dù những bông hồng này không bù đắp lại những gì đã mất, cũng không đáp lại trong muôn một sự hy sinh ngày tháng nhọc nhằn của thầy cô.Nhưng đây là tấm lòng của học trò, dù một con én không làm nên mùa Xuân, nhưng chúng ta có quyền hy vọng một tương lai đạo đức của nước non này.
Giờ đây, trong Tam Kỳ Phổ Độ, chúng ta thử có một cái nhìn tổng quát về hiện trạng xã hội ngày nay. Một xã hội văn minh khoa học tiến bộ, lại có quá nhiều thiên tai chiến họa khắp nơi, sinh mạng con người thật mong manh. Trong bối cảnh xã hội phức tạp như vậy, chúng ta thử nhìn lại mình mới thấy mình hạnh phúc đến bực nào.
Chúng ta được làm người trong thời Tam Kỳ, là tín đồ của Đức Cao Đài và lại là nhân viên trong bộ máy sau cùng của Thầy. Điều hạnh phúc nữa là chúng ta đang ở thời kỳ Đại ân xá, chúng ta cũng không phải lên non cao rừng thẳm tầm sư học Đạo như người xưa.
Ngày xưa, một Lục Tổ Huệ Năng sáu năm chẻ củi nấu cơm; một Tôn Ngộ Không bảy năm đốn củi tầm thầy cầu Đạo; một Trương Lương ba lần dâng dép mới được Huỳnh Thạch Công nhận làm đệ tử ban trao bí pháp. Người ta cũng nhớ đến một Lưu Bị "tam cố thảo lư" cầu Khổng Minh, hay Châu Văn Vương cầu Khương Tử Nha.
Còn chúng ta giờ đây giác ngộ tu hành gặp được Đạo Thầy và được Thầy dạy: "Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình mà sanh nhằm đời gặp đặng một mối Đạo cũng chẳng phải dễ."
Thầy dặn thêm: "Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ mình đặng cứu rỗi nhơn sanh là thế nào, phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của tiên phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối cao tối trọng. Còn Thầy thì khiêm nhượng là thế nào?"
Chúng ta ở thời mạt kiếp tưởng mình trầm luân nơi biển khổ lại được Thầy, nhị vị Tôn Sư (Đức Đông Phương và Đức Lý Giáo Tông) và chư thần thánh, tiên phật cứu rỗi, thương yêu dạy dỗ. Ơn Trên dạy:
"Là môn đệ Cao Đài Thượng Đế,
Phải dặn lòng Phước Huệ song tu."
Thầy dạy: "Thầy nói cho các con hiểu rằng: Muốn xứng đáng là môn đệ của Thầy thì khổ hạnh lắm, hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy càng hành bấy nhiêu. Như vậy đáng là môn đệ Thầy thì Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước, còn ngã thì địa ngục lại mời."
Chúng ta là những người đang hạnh phúc, cái hạnh phúc này cho dù núi cao, biển rộng cũng chẳng làm sao so sánh được. Vậy, bổn phận ta phải làm gì?
Chúng ta hãy là những trò ngoan, một lòng tôn Sư trọng Đạo, chung thân quyết chí tu hành để đến ngày khoa trường ứng thí.
May duyên gặp hội Long Vân,
Thuyền thơ ngọn gió các Đằng xuôi đưa.
Đọc thêm: http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/savants/chuvanan.htm
Chu Văn An (1292 - 1370)
Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc.
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.
(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.
Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).
Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.
Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).
Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.
Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy. Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.
Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.
( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).
Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.
Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.
Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".