

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Tìm hiểu Kinh Ngọc Lộ Kim Bàn Là người Cao Đài không ai tránh được thổn thức khi đọc hay nghe ...
-
Đất nước Việt Nam với dòng giống Rồng Tiên đã sản sinh ra biết bao anh hùng dân tộc hằng ...
-
Mùa Xuân thắm màu hoa, em áo mới, Hoa tỏa hương, tà áo mới em bay. Bước tung tăng, em đi lễ ...
-
Dòng sông uốn khúc qua bao thác ghềnh, đón nhận mọi nguồn nước đục trong, nhưng không bao giờ dừng ...
-
Sinh ra trong một gia đình có 7 anh chị em, ông Lê Đình Nghiên thuộc thế hệ thứ ba ...
-
Ý Nghĩa Vu Lan Trần Ngọc Tâm Hằng năm vào dịp Rằm tháng Bảy, là Lễ Trung Ngươn Địa Quan xá tội, ...
-
Trong huấn từ của Đức Chí Tôn do Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo tuyên đọc ngày 29-02 Mậu ...
-
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Công-Bình Bác-Ái Từ-Bi Niên Đạo thứ 85 Thánh-Thất Cao Đài Paris 35, rue Roger-Girodit. 94140 Alfortville FRANCE : 01 43 53 ...
-
Giải pháp ưu việt nhất để cứu độ con người là con người làm thế nào phát huy tối đa ...
-
Hằng ngày ở nhà, mỗi khi bận việc, má thường bảo tôi thay má châm nước cúng Thầy. Nhờ vậy ...
-
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1586) là bậc "Muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô, bảy bước thành thơ, ...
-
Cao Đài /
Vào năm 1927, trong một đàn cơ tại Cần Thơ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã cho một bài thơ ...
Trích Lịch sử đạo Cao Đài I - CQPTGLĐĐ.
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 30/12/2009
Thanh An Tự

(Ảnh trên:Thanh An Tự - trích từ quyển Lịch sử đạo Caio Đài I/CQPTGL.)
Những năm đầu thế kỷ 20, ông Trần Hiển Vinh Trong danh sách bằng hữu của Ngài Vương Quan Kỳ (do chính Ngài ghi lại) có tên ông Trần Hiển Vinh. Hai vị cùng tuổi nên có thể học đồng lớp tại trường Chasseloup - Laubat. (1884 - 1962) được tổ phụ truyền lại, làm chủ chùa. Ông cho trùng tu, mở rộng chánh điện, lót gạch tàu toàn bộ nền chùa, trở nên nơi thờ phượng khang trang. Cũng trong những năm ấy, ông Tư Vinh và anh ruột là ông Trần Phát Đạt cùng các thân hữu gồm quý vị: Nguyễn Văn Trượng, Lê Văn Hơn, Trần Duy Khánh, Phan Văn Tý.. hợp nhau cầu cơ thỉnh Tiên. Ông Nguyễn Văn Trượng làm đồng tử phò Đại ngọc cơ. Có lẽ vì làm phước, lập đàn cầu Tiên gia cho thuốc trị bệnh bá tánh là chủ yếu, nên gọi là Đàn Minh Thiện. Tên Minh Thiện có từ đó.
Sau khi ông Trần Hiển Vinh qua đời (1962), khoảng 2 năm, chùa có tên là Minh Chơn. Tiếp đến, ông Trương Kế An cùng một số đạo hữu hành đạo tại đây có thượng Thánh Tượng Thiên Nhãn và cúng kiến theo Cao Đài (Các tượng thờ khác vẫn giữ nguyên). Đến khoảng 1972, ông Trương Kế An bệnh không thường hành đạo tại đây được nữa, chùa trở lại thờ Đức Quan Thánh như ngày nay.
Thời gian còn là Đàn Minh Thiện, trùng với buổi đầu Khai Đại Đạo Tam Kỳ, chùa cùng có những căn duyên:
· Với Nhóm Một: Ngài Ngô Văn Chiêu thời chưa ngộ đạo, năm 1902, do muốn cầu thọ cho thân mẫu, có lên Thủ Dầu Một hầu đàn Minh Thiện. Hôm ấy Ngài Ngô được Thiêng Liêng ban cho bài thi khuyến tu "Thủ bôi nhị lễ …" (xin xem thêm phần : Bước đầu tiếp xúc với Thần Tiên nơi trang 58)
Đến năm 1919, một năm trước khi làm đệ tử Đấng Cao Đài, Ngài Ngô Văn Chiêu có trở lên đàn Minh Thiện cầu thuốc cho mẹ. Đức Quan Thánh hôm ấy giáng cơ ban cho Ngài bài thi tứ tuyệt.
Cũng nhờ đã biết trước cách thức cầu Đại ngọc cơ tại đàn Minh Thiện, nên sau này tại Tân An, khi nhận được lệnh Ơn Trên chuyển từ chấp bút sang dùng Đại ngọc cơ, Ngài Ngô dễ dàng thay đổi.
· Với Nhóm Hai: Vào trước đêm Trung Thu Ất Sửu (1925), quý ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang được lệnh phải dùng Đại ngọc cơ hầu tiếp Đức Diêu Trì trong Lễ Hội Yến Bàn Đào. Do từ trước chỉ biết xây bàn, quý ngài đang còn bỡ ngỡ. Khiến sau có ông Phan Văn Tý (1888 - 1962)
là bạn của Ngài Cao Quỳnh Cư (nhà ở đối diện, cùng đường Bourdais). Ông Phán Tý là người gốc ở Thủ Dầu Một, bổn đạo của đàn Minh Thiện, đã có thỉnh về một Đại ngọc cơ.
Ông Phan Văn Tý đã cho mượn và vui lòng hướng dẫn quý ngài cách sử dụng Đại ngọc cơ, vừa khớp với lệnh Ơn Trên.
· Năm 1920, Ông Lê Minh Khá nguyên là xã trưởng Vĩnh Hội, qua nhiều lần lên Đàn Minh Thiện cầu thuốc trị bệnh, ông đã được Đức Quan Thánh độ dẫn dạy lập chi Minh Tân (xin xem thêm nơi trang 473). Đến năm 1926, Ơn Trên chuyển lịnh Chi Minh Tân quy nhập Cao Đài Giáo.
Tuy có những căn duyên với Cao Đài Giáo về nhiều phương diện như kể trên, nhưng hiện nay Thanh An Tự đã bế cơ bút và hoạt động hoàn toàn độc lập, giữ đúng nếp xưa.