
Nói đến Lão giáo, người ta nghĩ ngay đến đường lối tu hành theo Tiên Đạo, là cách tu ẩn dật, trở về với thiên nhiên được hình dung qua cuộc sống thơ túi rượu bầu, luyện đan nấu thuốc của những đạo sĩ. Đấng Giáo tổ khai sáng Lão giáo theo truyền thuyết là Đức Lão Tử.

Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo gồm Cựu Ước và Tân Ước. "Cựu ước" có nghĩa là "giao ước cũ", trình thuật về diễn tiến lịch sử dân Do Thái, trong đó có mấy lần Thiên Chúa Yavê giao ước với loài người: lần I, giao ước với Noê; lần II, giao ước với Abraham, tổ phụ dân Do Thái ; lần III, sau khi dân Do Thái rời khỏi Ai Cập, Thiên Chúa truyền "Mười điều răn" và giao ước với toàn dân trên núi Sinai qua trung gian Mosê. "Tân ước" là "giao ước mới" giữa Thiên Chúa và loài người được hiện thực nơi một nhân vật lịch sử mang thiên tính là Đức Giêsu, vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Thiên Chúa.

Động cơ trung tâm cho việc hoá độ của Long Thụ – một công trình hoằng pháp lập cơ sở cho Trung quán tông sau này cũng như lưu lại nhiều tác phẩm triết học Phật giáo – chính là việc khôi phục giáo lí của đức Phật.

Tam giáo qui nguyên, như nước ba sông lớn đổ về biển cả, không thể biết nước nào thuộc về sông nào. Học thuyết mỗi giáo tuy luận điểm và danh từ có khác nhau, nhưng xét về mặt nguyên lý, thì Tam giáo đồng thờ một căn bổn Độc nhứt và Phổ biến, mà thông thường mà người ta gọi tắt là Ngôi Độc Nhứt. Ngoài ra, ba giáo đều chủ về tâm tánh và luận về thiện ác, họa phước vay trả.
Tôn sư trọng đạo /
Không thầy đố mày làm nên, Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy. Yêu kính thầy mới làm thầy, Những phường bội bạc sau này ra chi.
Không thầy đố mày làm nên, Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy. Yêu kính thầy mới làm thầy, Những phường bội bạc sau này ra chi.

Vì "mới ra lò" sau năm 2000 nên tôi chắc là ít người đã biết đến SQ và SQ cũng đang còn ở trong thời kỳ phôi thai nên chúng ta chưa thực sự thấy rõ được cái tầm vóc và tương lai của SQ ra sao.
Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên của dân tộc Việt Nam qua các thời đại /
Ngay từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện ở Việt Nam, mà bấy giờ tên gọi là Giao Chỉ Bộ (từ năm 111 trước công nguyên) rồi là Giao Châu (từ năm 203). Giao Chỉ thời Sĩ Tiếp (sử Việt Nam viết là Sĩ Nhiếp) là nơi giao lưu văn hóa Việt-Ấn-Hán, là nơi hội tụ và dung hòa các luồng tư tưởng Ấn-Hán (Phật, Nho, Đạo) với văn hóa bản địa.
Ngay từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện ở Việt Nam, mà bấy giờ tên gọi là Giao Chỉ Bộ (từ năm 111 trước công nguyên) rồi là Giao Châu (từ năm 203). Giao Chỉ thời Sĩ Tiếp (sử Việt Nam viết là Sĩ Nhiếp) là nơi giao lưu văn hóa Việt-Ấn-Hán, là nơi hội tụ và dung hòa các luồng tư tưởng Ấn-Hán (Phật, Nho, Đạo) với văn hóa bản địa.
Bốn phương pháp giải thoát của Ấn giáo /
Ấn giáo nêu lên bốn phương pháp giải thoát (moksha) gọi là yoga hay mârga.
Ấn giáo nêu lên bốn phương pháp giải thoát (moksha) gọi là yoga hay mârga.
Thiền Tông và Tịnh Độ Tông của Phật giáo /
Nhiều người cho rằng Thiền Tông khác với Tịnh Độ Tông , vì một bên chú trọng vào tự lực, một bên trông vào tha lực; nhưng có người lại nói rằng Thiền và Tịnh vốn chẳng khác nhau (?).
Nhiều người cho rằng Thiền Tông khác với Tịnh Độ Tông , vì một bên chú trọng vào tự lực, một bên trông vào tha lực; nhưng có người lại nói rằng Thiền và Tịnh vốn chẳng khác nhau (?).
Đạo gia Nhập thế và Xuất thế /
Trong kinh nhựt tụng Cao Đài, bài Tiên giáo Chí Tâm Quy Mạng Lễ, xưng tụng Đức Thái Thượng Đạo Quân như sau : "Tiên Thiên khí hóa Thái Thượng Đạo Quân Thánh bất khả tri Công bất khả nghị Vô vi cư Thái Cực chi tiền Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng Đạo cao nhứt khí Diệu hóa Tam Thanh Đức hoán hư linh Pháp siêu quần Thánh Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến..."
Trong kinh nhựt tụng Cao Đài, bài Tiên giáo Chí Tâm Quy Mạng Lễ, xưng tụng Đức Thái Thượng Đạo Quân như sau : "Tiên Thiên khí hóa Thái Thượng Đạo Quân Thánh bất khả tri Công bất khả nghị Vô vi cư Thái Cực chi tiền Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng Đạo cao nhứt khí Diệu hóa Tam Thanh Đức hoán hư linh Pháp siêu quần Thánh Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến..."
Ngũ Thời /
Theo Ngài Trí Giả Đại Sư thì Đức Phật thuyết pháp chia làm năm thời kỳ như sau : 1. Thời kỳ Hoa nghiêm (Avatamsaka) : Sau khi mới thành đạo, Đức Phật dùng tuệ nhãn nhìn thấy rõ tâm địa các vị Đại Bồ Tát và các bậc căn trí Đại thừa đã thuần thục, nên Ngài nói Kinh Hoa Nghiêm để giáo hóa và điều ngự họ. Trong số đó cũng có những bậc Tiểu thừa ngồi nghe, nhưng lại chẳng hiểu Đức Phật nói gì cả.
Theo Ngài Trí Giả Đại Sư thì Đức Phật thuyết pháp chia làm năm thời kỳ như sau : 1. Thời kỳ Hoa nghiêm (Avatamsaka) : Sau khi mới thành đạo, Đức Phật dùng tuệ nhãn nhìn thấy rõ tâm địa các vị Đại Bồ Tát và các bậc căn trí Đại thừa đã thuần thục, nên Ngài nói Kinh Hoa Nghiêm để giáo hóa và điều ngự họ. Trong số đó cũng có những bậc Tiểu thừa ngồi nghe, nhưng lại chẳng hiểu Đức Phật nói gì cả.
Sứ mạng Nho tông chuyển thế /
Có thể nói "Sứ mạng Nho tông chuyển thế" trong giáo lý Cao Đài là một ý niệm không đơn giản nhưng lại được Ơn Trên giảng giải rất ít, rất hiếm hoi.
Có thể nói "Sứ mạng Nho tông chuyển thế" trong giáo lý Cao Đài là một ý niệm không đơn giản nhưng lại được Ơn Trên giảng giải rất ít, rất hiếm hoi.