
Trước Tết nguyên đán, mỗi độ đón chào Xuân mới chúng ta thường nhắc đến phong cách thưởng Xuân Cao Đài. Đó là phong cách bình dị thâm trầm của người học đạo, lấy Tâm Xuân dịu hòa cởi mở để đối đải với khí vận đổi mới hân hoan của người, của cảnh; thay vì đua chen hội hè đình đám. Nay đã vào Xuân, người đời, người đạo đều muốn mở đầu một năm hưng thịnh thành công; nhưng phong cách, phương châm cũng khác. Đời thì thiên về kinh tế thực dụng. Đạo thì hướng đến công đức độ dân. Thế nên, là những người đang dấn bước tu học hay nặng mang sứ mạng đạo nhà, chúng ta hãy cùng nương theo Khí Xuân lập chí tiến đức tu nghiệp.
TRỞ NGẠI TRONG TU TỊNH (LỜI DẠY CỦA ĐỨC BÁC NHÃ THIỀN SƯ) /
Biết tiềm thức còn chôn đủ nghiệp, Khi móng lên mau kịp ngăn phòng; Ma ngoài hiệp với ma trong, Ngơ đi chớ tưởng lặng lòng quên thân.
Biết tiềm thức còn chôn đủ nghiệp, Khi móng lên mau kịp ngăn phòng; Ma ngoài hiệp với ma trong, Ngơ đi chớ tưởng lặng lòng quên thân.

“ Thầy mong con biết Thầy hiểu Đạo, Cho thế gian cải tạo thanh bình; Lòng Thầy thương cả chúng sanh, Trong tình Tạo Hóa trong tình thiên nhiên.” [Thiên Lý Đàn, Tuất 14 tháng Giêng Bính Ngũ (4.2.66)
Chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên vị phật /
Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu. Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên, vị phật, trường sanh bất lão. Hơn nữa, các em nhớ : liều thuốc ngủ không làm cho bịnh nhơn ngũ yên lành vì bịnh tâm tư; đạo không đắc quả cho người trường chay tuyệt dục là do tâm động. Các em hiểu chăng ? Cười…
Bần Đạo để ít lời các em cần hiểu. Bần Đạo cũng nhắc lại để các em nhớ, chỉ có tâm mới xây nên ngôi tiên, vị phật, trường sanh bất lão. Hơn nữa, các em nhớ : liều thuốc ngủ không làm cho bịnh nhơn ngũ yên lành vì bịnh tâm tư; đạo không đắc quả cho người trường chay tuyệt dục là do tâm động. Các em hiểu chăng ? Cười…
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHAI MINH ĐƯỢC ĐẠI ĐẠO? /
Nếu có dịp chứng kiến đại lễ Khai Minh Đại Đạo vào năm Bính Dần 1926, có lẽ đại đa số nhân loại đều cho rằng đó là sự ra đời của một tôn giáo. Không ít tín đồ Cao Đài cũng nghĩ rằng đó là lễ ra mắt tôn giáo Cao Đài trước nhân sanh. Nhưng tại sao, trong toàn Đạo – từ các đấng Thiêng Liêng cho đến con người – ngày lễ này lại được gọi là “Khai Minh Đại Đạo” (hay ngắn gọn hơn, “Khai Đạo”), chứ không gọi là “Khai Minh Cao Đài”? Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đã dạy: “Người vẫn tưởng Cao Đài - tôn giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương.” (1)
Nếu có dịp chứng kiến đại lễ Khai Minh Đại Đạo vào năm Bính Dần 1926, có lẽ đại đa số nhân loại đều cho rằng đó là sự ra đời của một tôn giáo. Không ít tín đồ Cao Đài cũng nghĩ rằng đó là lễ ra mắt tôn giáo Cao Đài trước nhân sanh. Nhưng tại sao, trong toàn Đạo – từ các đấng Thiêng Liêng cho đến con người – ngày lễ này lại được gọi là “Khai Minh Đại Đạo” (hay ngắn gọn hơn, “Khai Đạo”), chứ không gọi là “Khai Minh Cao Đài”? Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đã dạy: “Người vẫn tưởng Cao Đài - tôn giáo, Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương.” (1)

Kỷ niệm lễ Khai Minh, Nén hương nguyền lâng lâng tâm đạo, Nhớ người xưa gian khổ theo Thầy hằng chỉ giáo ; Từ rừng già dựng Thánh thất nguy nga, Pháp Chánh Truyền, Tân Luật nêu đuốc sáng Kỳ Ba ;

Vậy, để hội nhập thế giới trong kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ, người Cao Đài phải nhận định, nắm bắt những chuyển biến hay “bùng nổ” đương đại mà các điểm nhấn thuộc về: _ Khoa học kỹ thuật như truyền thông, giao thông, cơ giới, môi trường . . . _ Văn hóa như các giá trị nhân bản, nhân văn, cộng đồng, văn học, nghệ thuật . . . _ Về tôn giáo như đồng thuận liên tôn, nhập thế và hành đạo thực tiễn vị nhân sanh. . . Như thế, khuynh hướng hội nhập của Cao Đài có ưu thế ở mục tiêu “Thế đạo đại đồng”, nhưng phải hiện đại hóa toàn diện từ định hướng hành đạo, đến kế sách đào tạo, phương pháp, phương tiện phổ truyền giáo lý. . .

Từ thuở khởi nguyên của đạo tức tôn giáo Cao Đài chúng ra, khi Đức Chí Tôn vừa thâu nhận xong hai nhóm đệ tử đầu tiên của Ngài thì Đức Từ Mẫu bèn đến với chư Tiền Khai trong khung cảnh Hội Yến Bàn Đào. Sự lâm phàm Khai Đạo của Thầy được biểu trưng bằng Thiên Nhãn, mà Thiên Nhãn cũng chính là ngôi Thái Cực hóa sanh vạn vật, vận hành vũ trụ. Sự lâm phàm của Mẹ được biểu trưng bằng cuộc hội yến trùng hoan. Một cung cách thống ngự, khai sinh của Thầy. Một cung cách gần gũi, vỗ về của Mẹ. Hình thức mở đạo đã bày tỏ thiên lý, thiên cơ. Mẹ là Vô Cực, là bản thể, là ngôi bảo tồn. Thầy là Thái Cực là ngôi Sáng tạo. Cho nên đứng về hiện tượng tôn giáo, khai Tam Kỳ Phổ Độ thì duy có Thầy là Giáo chủ. Còn về mặt cứu rỗi vô vi thì Đức Từ Tôn chưởng quản.
Giao lưu và hợp lưu để trường lưu /
Hai chữ “giao lưu” đem lại ấn tượng về những mối quan hệ đa phương nhắm đến sự thông cảm, hiểu biết, hợp tác với nhau giữa các thành phần xã hội, giữa các thế hệ, giữa các đoàn thể trong nước hay quốc tế. Trong thời đại hiện nay, những tiến bộ không ngừng về giao thông, truyền thông đã làm nở rộ phong trào giao lưu trên toàn thế giới. Xu thế đó phù hợp với văn minh thời đại, với kỳ vọng sống chung hòa bình và tiến bộ của các dân tộc trên thế giới.
Hai chữ “giao lưu” đem lại ấn tượng về những mối quan hệ đa phương nhắm đến sự thông cảm, hiểu biết, hợp tác với nhau giữa các thành phần xã hội, giữa các thế hệ, giữa các đoàn thể trong nước hay quốc tế. Trong thời đại hiện nay, những tiến bộ không ngừng về giao thông, truyền thông đã làm nở rộ phong trào giao lưu trên toàn thế giới. Xu thế đó phù hợp với văn minh thời đại, với kỳ vọng sống chung hòa bình và tiến bộ của các dân tộc trên thế giới.
PHÁP QUÁN THẾ ÂM Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn /
Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn - Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, phiên âm ra tiếng Việt bằng nhiều câu sau đây: • Án ma ni bát di hồng. • Om ma ni bát mê hồng. • Úm ma ni bát rị hồng, được xem là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng để cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara). “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” : Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ, trong đó, AUM (OM, ÁN, UM) là một tiếng thiêng liêng đã có từ 1.200 năm trước C.N, không chỉ trong Bà La Môn giáo (Ấn Độ giáo), Phật giáo, mà còn ở nhiều giáo phái khác, nên có hàng 100 ý nghĩa khác nhau: AUM là tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ, là sự sống vĩnh cửu, là định luật phổ biến, là ánh sáng hiện hữu khắp nơi, là nhịp điệu vũ trụ, là sức mạnh sáng tạo, là biểu hiện cụ thể của Chân Như, là tinh hoa con người và vạn hữu.v..v.
Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn - Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, phiên âm ra tiếng Việt bằng nhiều câu sau đây: • Án ma ni bát di hồng. • Om ma ni bát mê hồng. • Úm ma ni bát rị hồng, được xem là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng để cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara). “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” : Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ, trong đó, AUM (OM, ÁN, UM) là một tiếng thiêng liêng đã có từ 1.200 năm trước C.N, không chỉ trong Bà La Môn giáo (Ấn Độ giáo), Phật giáo, mà còn ở nhiều giáo phái khác, nên có hàng 100 ý nghĩa khác nhau: AUM là tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ, là sự sống vĩnh cửu, là định luật phổ biến, là ánh sáng hiện hữu khắp nơi, là nhịp điệu vũ trụ, là sức mạnh sáng tạo, là biểu hiện cụ thể của Chân Như, là tinh hoa con người và vạn hữu.v..v.

“Dầu ở MINH LÝ THÁNH HỘI , dầu ở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, dầu cư sĩ tại gia, hãy tạo cho mình một tư tưởng, hãy chọn cho mình một việc làm khả dĩ gọi là tư tưởng trong lành, việc làm Đạo đức thanh cao Thánh thiện. Đó là tự mình đã tạo cho mình có những lương phương diệu dược, có đạo linh phù hộ mạng, và cũng là có được nhịp cầu thông cảm cùng Phật, Tiên, Thánh, để được hộ trì dắt dẫn ở kiếp hiện sanh và thoát thai Thánh hóa ở kiếp lai sanh.

Những bậc Vĩ Nhân danh lưu thiên cổ đó toàn là những người có một nội lực vị tha phi thường. Vậy đề tài “LÒNG VỊ THA” mà tôi sẽ đem ra bàn hôm nay đây để chúng ta tự vấn phải chăng chỉ có những nhân vật vĩ nhân trong quá khứ vừa kể trên mới có cái nội lực phi thường đó? Còn chúng ta nay đây thì sao? Và tấm lòng vị tha đó, nó có ích lợi gì cho ai chăng, có ích lợi chi cho đời sống đạo lý của chúng ta hay không, và phải làm sao cho có tấm lòng vị tha? Vậy xin thỉnh quí vị chịu khó kiên nhẫn trong một tiếng đồng hồ để theo dõi giáo lý Cao Đài nói sao về việc nầy.