Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Thế sự giả chơn thôi trối kệ,
Tùy thời công quả với công phu
-
Người chèo đò ở Sangam chỉ xuống dòng nước đục ngầu của sông Hằng, nơi gặp dòng nước màu xanh lục của sông Yamuna.
Dòng sông thứ ba, Saraswati huyền bí chảy dưới lòng đất, ông nói.
Đây là nơi linh thiêng nhất trong Ấn giáo, ngã ba sông, nơi người ta đến tắm để gội rửa tội lỗi của họ.
Hàng ngàn chiếc thuyền chật vật tìm chỗ neo. Trên thuyền là hàng chục ngàn người sẽ xuống tắm dưới sông trong mùa lễ Kumbh kéo dài trong sáu tuần.
Tiếng chim hải âu lượn trên không hòa với tiếng nhạc phát ra từ các loa phóng thanh giữa những lời thông báo liên tục được loan đi để tìm người thất lạc.
-
Trần gian là trường tiến hóa cho vạn linh sanh chúng, nhưng đồng thời cũng là nơi con người chịu sự chi phối của luật nhân quả. Thật vậy, kết quả của hiện kiếp do duyên nghiệp gây ra từ tiền kiếp và có thể cả ở kiếp hiện tại theo Luật nhồi quả (đối với trường hợp hành giả tu giải thoát, quyết đoạn tuyệt với kiếp lai sanh).
-
“Từ thuở khai Thiên tịch Địa sắp bày trần thế đến ngày nay, các con chỉ hiểu đạo khai trong những thời kỳ hỗn loạn để cứu thế, hay đạo khai trong cơ biến dịch đất trời. Đến ngày nay, Thầy đã dạy rất nhiều và rất rõ ràng cho các con từ mấy mươi năm qua, đạo là con đường duy nhứt của vạn linh sanh chúng, từ Thầy ban phát đến thế gian, và từ thế gian các con trở lại cùng Thầy. [. . .]” Ngọc Minh Đài, Tuất thời 29 tháng chạp Bính Ngọ (8-2-67)
-
“Bởi quyền Đạo còn yếu nên thế quyền mới lấn được; dầu phải thế quyền cao rộng đến bao nhiêu cũng không làm sao triệt thối được tâm đạo con người giải thoát. Bởi lẽ còn cống cao là còn chấp mạnh, chấp chặt vào cái gì thì cái đó bị trước bị ngăn, thì khổ não phiền còn thiêu đốt, lửa vô minh cháy cả trí khôn. Chấp danh lợi ái ân, danh lọi ái ân mất đi mà khổ, chấp pháp quyền kinh giáo chùa am, pháp quyền hình kinh chùa am mất đi mà lòng khiếp đởm bỏ tu chối đạo.
-
Lịch sử đạo Cao Đài cho thấy đức tin Cao Đài, từ lúc chưa có đến lúc lập thành vững chắc nơi những người môn đệ đầu tiên là cả một biến chuyển kỳ diệu và trọng đại trong một thời gian ngắn ngủi để khai minh Đại Đạo.
Giai đoạn lịch sử ấy, trước hết xác minh sự hiện hữu của vũ trụ tâm linh. Nói đúng hơn, xác minh vũ trụ là một Càn Khôn thống nhất, một tổng thể của sự sống hữu hình lẫn vô hình.
-
Thánh giáo có viết: ““Thượng Đế đến khai minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề hoát khai Đại Đạo để cứu độ vạn linh là một hi hữu khác.” . Đương nhiên, ĐĐTKPĐ trong quá trình Khai Đạo, Tổ chức nền Đạo, truyền Đạo với Tôn chỉ Mục đích của Đạo đều có những đạc điểm so với các tôn giáo được sáng lập trong thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
Do đó, người tín hữu Cao Đài cần nắm vững những đặc điểm ấy để có đức tin vững vàng đồng thời hành đạo tự độ độ tha đúng theo Chơn Truyền Đại Đạo mới thành công đắc quả.
-
Đức Ngọc sanh vào ngày 1.9 Canh Dần (1890) tại Cần Giuộc. Từ nhỏ đến khi trưởng thành Ngài sống cạnh cha (là Ngài Lê Văn Tiểng, một gương đạo hạnh mẫu mực). Đến năm 1908, từ khi Ngài Lê Văn Tiểng xây dựng ngôi Vĩnh Nguyên Tự, người thanh niên 19 tuổi Lê Văn Lịch đã hòa mình hẳn vào môi trường đạo đức. . .
-
Chùa Bà Thiên Hậu tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh. Chùa còn được gọi vắn tắt là chùa Bà hay là Thiên Hậu miếu.
-
Thánh thất Cầu Kho là một trong những Thánh thất đầu tiên cơ Phổ độ Công truyền (đầu năm 1926), lập tại ngôi nhà ngói ba gian, cột gỗ vách ván của Ngài Đoàn Văn Bản, số 42 đường Général Leman (cuộc đất số 102 Trần đình Xu hiện nay, góc đường Cao Bá Nhạ). Trước đó, năm 1925, Ngài Đoàn Văn Bản đã thờ Đức Cao Đài theo sự hướng dẫn của Ngài Ngô Minh Chiêu.
-
Đức Chí Tôn và các hàng Phật Tiên Thánh Thần đồng giáng thế bằng linh điển, diễn giải những bí ẩn của Càn-khôn vũ trụ, từ hữu vi đến vô hình để chúng sanh có đầy đủ đức tin nơi Thượng Đế và biết được con đường tiến hóa trên những nấc thang vũ trụ, hầu học đạo giải thoát, khỏi luân hồi vào những thế giới đọa đày đau khổ. Do đó có thể nói Đại Đạo đang mở cửa Càn-khôn để tận độ chúng sanh.
-
Bước qua kỷ nguyên những năm 2000, toàn thế giới trở nên rất sôi nổi với những cuộc vận động HỘI NHẬP QUỐC TẾ và TOÀN CẦU HÓA trên nhiều phương diện.
Với những tiến bộ gia tốc của thời đại, thế giới đã trở nên một mặt bằng chung của mọi quốc gia, trong đó những mối quan hệ phức tạp, cọ xát với nhau ngày càng mạnh mẽ, tốc hành, khiến cho không nước nào có thể đơn phương họat động quốc tế bằng kế họach chủ quan của mình.
Do đó, học thuyết “hội nhập quốc tế” ra đời, nhằm thành lập các tổ chức tạo điều kiện cho các quốc gia thành viên đồng thuận với nhau trên nhiều lãnh vực để “làm ăn” có hiệu quả và đồng phát triển.
