Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi?
Có phải do công cha nghĩa mẹ đã sanh thành và dưỡng dục tôi từng ngày?
Có phải tôi sống bởi vì tôi đang hít thở và tim tôi vẫn đang đập từng giây từng phút?
Có phải vì các tế bào trong cơ thể tôi đang được điều hòa họat động một cách rất hợp lý, chưa bị trục trặc gì đáng kể, nên tôi cũng được sống bình thường như bao con người khác?
Có phải do tình yêu thương của những người xung quanh tôi đã làm cho cuộc đời tôi trở nên sống động và đáng sống?
Có phải tôi sống bởi vì tôi còn có ích trên cõi đời này?
-
Hiện nay Thành phố có 860 chùa, 120 tịnh xá và tịnh thất của Phật Giáo. Trong đó chùa Giác Lâm cổ nhất, được khởi công xây vào năm 1744. Công Giáo có 194 giáo xứ với 270 nhà thờ và 64 nhà tu dòng. Nhà thờ Chợ Quán được khởi công xây dựng từ năm 1727. Tin Lành có 45 nhà thờ. Hồi Giáo có 15 thánh đường.
Vào giữa thập niên 20 thế kỷ 20, Sài Gòn đã là điểm tựa để gầy dựng mầm mống ban đầu của đạo Cao Đài. Thoạt tiên, tiền bối Ngô Văn Chiêu từ đảo Phú Quốc về làm việc và tu thiền tại Sài Gòn (tháng 7-1924). Bấy giờ tiền bối đã thọ tâm pháp Cao Đài và là vị môn đồ đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông.
-
Samedi 18 Septembre 1926
13 tháng 8 năm Bính Dần
Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài
Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Giáo Ðạo Nam Phương
Các con, Thầy đã lập thành Thánh-Thất; nơi ấy là nhà chung của các con; biết à.
Thầy lại quy Tam-Giáo lập thành Tân-Luật, trong rằm tháng mười có đại-hội cả Tam-Giáo nơi Thánh-Thất. Các con hay à!
Sự tế tự sửa theo "Tam-Kỳ Phổ-Ðộ" cũng nơi ấy mà xuất hiện ra; rõ à!
Từ đây trong nước Nam duy có một Ðạo chơn-thật là Ðạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là "Quốc-Ðạo", hiểu à!
-
Tây Minh /
Tây Minh vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng 乾 稱 trong Chính Mông正 蒙 của Trương Hoành Cừ, tức Trương Tái (1020-1077). Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía tây nơi thư phòng (ông đặt tên là Đính Ngoan 訂 頑 ); rồi chép đoạn cuối thiên này vào vách tường phía đông (ông đặt tên là Biếm Ngu 砭 愚 ).
-
Bực Chơn Nhơn ngày xưa không ưa sống, không ghét chết, lúc ra không hăm hở, lúc vào không do dự, thản nhiên mà đi, không quên lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót. Nhận lãnh thì vui với đó, mà quên đi khi phải trở về. Nhờ được thế mà lòng họ luôn luôn vững vàng, cử chỉ điềm đạm, gương mặt luôn luôn bình thản
-
Bài đã được xuất bản.: 21/08/2010 06:00 GMT+7
Mùa Vu Lan lại về! Cái lạnh buốt giá của mùa đông như se sắt thêm nỗi lòng của những người con đang tưởng nhớ đến Cha, đến Mẹ đã qua đời; Bếp lửa hồng như ươm nồng thêm hơi ấm hạnh phúc của đàn con đang quây quần chuyện trò cùng Cha Mẹ, với ánh mắt thương yêu của Cha, nụ cười hiền hoà của Mẹ.
Và đồng thời cũng có những bà Mẹ nước mắt lưng tròng ngồi lắng nghe những câu văn, lời thơ thiết tha, chân tình của những người con nhắc nhớ đến công ơn Cha Mẹ được phát ra từ chiếc radio mà tủi thân, tan nát cả cõi lòng, bởi nhớ đến con của mình giờ này không biết đang lêu lõng ở phương nào?
-
Những ai học Dịch đều hiểu rõ và nhớ ơn các
Thánh – Phục Hy, Văn Vương, Chu Công
Đán và Đức Khổng Tử. Đây là Tứ Thánh đã có
công chế tác, san định và hoàn chỉnh bộ Thiên
thơ Kinh Dịch cách đây mấy ngàn năm, và cho
đến ngày nay vẫn được hậu thế tiếp tục học hỏi,
nghiên cứu để áp dụng theo những lời dạy của
các Thánh xưa trong bộ Kỳ Thư Bảo Điển này.
Tài liệu viết về Đức Chu Công rất hạn chế –
chỉ có trong quyển Luận Ngữ và Trung Dung ở
chương 19. Nhưng không vì vậy mà chúng ta sẽ
không tìm hiểu được thân thế và công đức to
lớn của ngài. Bài viết sau đây để chúng ta tìm
hiểu Lễ đời nhà Chu.
-
Đức Vô Cực Từ Tôn:
"Kìa con ! Đời đang loạn lạc, người người mong vọng hòa bình, tôn giáo đang chia rẽ, tín đồ đạo hữu mong vọng điều hiệp nhứt, mà hòa bình do nơi đâu hỡi con ? Hòa bình hay hiệp nhứt, Đức Thượng Đế đã ban cho mỗi con từ khi mới đến trần gian. Con hãy tìm đem ra mà sử dụng. Tâm con hòa bình, thế giới sẽ hòa bình, tâm con hiệp nhứt, tôn giáo sẽ hiệp nhứt. Các thứ ấy con không thể cầu ở tha lực tha nhân mà có đâu con ![1]
[1]Thánh Thất Bình Hòa, 14 rạng Rằm tháng 8 Canh Tuất (14-9-70)
-
" Quyền pháp không giao riêng cho ai, cho xã hội nào, cho tôn giáo nào ; quyên pháp có vẫn có, tùy tâm ý mà đạt định, tùy sứ mạng mà nhận lãnh."
-
Mùa tu Xuân Phân lại về với chúng tôi. Nhớ lại trước đây, mỗi độ gần tới mùa tu thì Đức Lão Tổ có dạy đại ý như vầy.
“Người hành giả có ý thức giác ngộ thì cứ mỗi độ đến mùa tu, hãy lo sắp xếp mọi việc để khép mình vào tịnh đường mà tịnh luyện để nhiếp thâu chỗ giao dịch của Đất Trời để bồi dưỡng thân tâm. Chớ không phải đợi đến khi có lịnh Thiêng Liêng mới làm và khi làm ý niệm của mỗi người không giống nhau, có người làm là vì Thánh Lịnh. Nếu không làm thì sợ đắc tội với Ơn Trên, cho nên làm để trả lễ hoặc để chiếu lệ. Cũng có những người làm để được Ơn Trên chấm công, ban ơn, phù hộ mình đắc đạo”.
“Như vậy thì việc làm đó cảm thấy bị bắt buộc, gò bó chớ không phải do từ trong đáy lòng của mình thúc bạch, thiết tha với vị Đạo, mùi thiên v.v..”
-
SƠ LƯỢC về HUYỀN BÚT CƠ trong ĐĐTKPĐ.
Tý thời 14 rạng 15 tháng 3 Mậu Thân 1968, một buổi đàn cơ đặc biệt được tiến hành tại Tam Giáo Điện Minh Tân, bến Vân Đồn quận tư Sài Gòn. Đặc biệt, là do bởi đàn cơ nầy được thực hiện không theo phương cách và hình thức cầu cơ thông dụng của Cao Đài Giáo: dùng đồng tử thủ Đại Ngọc Cơ để Ơn Trên giáng điển viết chữ cho độc giã đọc hoặc cho đồng tử xuất khẫu. Trái lại trong buổi đàn cơ nầy, các đấng Thiêng Liêng dùng huyền linh điển làm cho một ngòi bút nhỏ được treo bằng một sợi chỉ tự động di chuyển trên một bảng chữ cái tiếng Việt. Ngòi bút di động đến mẫu tự nào thì đọc giả xướng lên cho điển ký ghi lại chữ đó và cứ thế mà ráp vần. Theo tài liệu còn lưu lại, số người dự buổi đàn đặc biệt đêm hôm đó gồm: bộ phận hành sự Huyền Cơ, bộ phận Hiệp Thiên Đài và nam nữ đạo hữu, tất cả là 106 vị.
-
Có một lần, tôi cùng một người bạn đạo về dự lễ Trung Thu Hội Yến Diêu Trì tại Tòa Thánh Tây Ninh, tôi được nghe giới thiệu về bức tượng " Đức Mẹ và Cửu vị Tiên Nương" thờ nơi bửu điện, trong đó có hai vị trước kia có xác phàm ở Việt Nam, là Thất Nương Vương Thị Lễ và Cửu Nương Cao Thoại Kiết.. . .
