Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Tóm lược. Dựa trên những nét đẹp đạo đức trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, kết hợp với thánh giáo dạy về nhân bản của Đức Đông Phương Chưởng Quản, bài viết cố gắng đưa ra những lập luận hướng đến mục đích khẳng định nhân bản là yếu tố căn bản, cốt lõi của tính chất dân tộc, quyết định sự hình thành và phát triển của truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời, đề xuất một phương thức giúp tuổi trẻ Đại Đạo có thể giữ gìn, phát huy, “làm nổi bật thuần túy tính chất của dân tộc mà luôn khế hợp với bản thể đại đồng nhân loại” .(2)
Từ khóa: văn hóa, đạo đức, văn hóa đạo đức, nhân bản, đại đồng, bản thể đại đồng nhân loại.
-
Yếu tố quyết định của hạnh là tâm.
Sau khi nhập môn, chúng ta phải có ngôn ngữ, cử chỉ khác hơn hôm trước, Ơn Trên dạy phải "khác hơn người thế tục". Đó là tác phong đạo hạnh.
Hạnh là sự thể hiện của tâm, đức bên trong hành giả qua ánh mắt, khuôn mặt, lời nói, hành động. Đức Cao Triều Tiền Bối dạy "Tâm đức là bát nhã thoàn đưa người qua bĩ ngạn. Tác phong đạo hạnh gây sự cảm mến đến nhơn tâm giác ngộ."[1]
Đức Mẹ dạy:
"Tiền nhân xưa chỉ đoan sửa tánh,
Mà kết chung nhập thánh siêu phàm;
Nay con đạo hạnh vững cầm,
Dày công tu sửa sẽ làm Phật Tiên."[2]
[1] CQPTGL, 11-02 nhuần Ất Sửu.
[2] CQPTGL, 03-8 Mậu Ngọ.
-
THẮP ĐUỐC ĐẠI ĐẠO ĐỂ GIEO NIỀM TIN SIÊU VIỆT CAO ĐÀI
Đức Chí Tôn khai đạo đã hơn 80 năm, đứng trước thực trạng một tôn giáo Cao Đài với nhiều Hội thánh song hành, dù ở cương vị nào với tâm tư tình cảm ra sao, người tín hữu Cao Đài đều phải chấp nhận thực tế cơ đạo ngày nay.
-
Từ thuở hoang sơ của địa cầu, loài người đã trải qua nhiều nỗi hãi hùng do biến động của thiên nhiên đất trời, nên nảy sinh tín ngưỡng mộc mạc, tôn thờ những sức mạnh vô hình. Dần dần theo đà phát triển của sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng đa thần xuất hiện. Từ dó, nhiều hình thức, nhiều nghi tiết bày tỏ đức tin đã hình thành đa tạp tùy theo tâm thức hướng về thần linh của mỗi bộ lạc, mỗi sắc tộc. Kỳ thị, mâu thuẩn, chiến tranh cũng phát sinh từ đó.
-
TRÚC LÂM THIỀN ĐIỆN Ngọ thời 18 tháng 7 Kỷ Dậu (30/8/1969)
(Bộ Phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý)
-
Thiên Quan Tứ Phước là vị quan nhà Trời xuống trần gian chăm lo cho dân, ban bố mọi sự tốt lành cho sự sống ấm no hạnh phúc của dân chúng.
Vị quan nhà Trời ấy, theo truyền sử, đó là VUA NGHIÊU (2357-2255 trước CN). Sở dĩ Ngài được xưng tụng là "Thiên Quan Tứ Phước" là vì công đức của Ngài ban rải cho nhân dân rất đỗi to tát.
Truyền sử ca ngợi rằng: "Vua Nghiêu rất thương dân. Ngài nói: "Thấy một người dân đói, ta thấy như là ta đói; thấy một người dân rét, ta thấy như là ta rét; thấy một người dân bị áp bức, ta thấy như là ta bị áp bức". Vua Nghiêu cho đặt trống và bảng trước triều ca. Hễ ai muốn can gián, khuyến cáo nhà vua, thì hoặc đánh trống xin vào triều kiến, hoặc là viết lời gián nghị lên bảng.
-
Đức Lý Đại Tiên Trưởng Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dạy rằng sứ mạng của người hướng đạo "là tự độ và độ tha. Tự hoàn thiện mình và hoàn thiện tha nhân trên 2 phương diện:
1. Phổ thông phổ truyền giáo lý về mặt ngoaị giáo công truyền.
2. Đạt Đạo giải thoát bằng phương pháp Tánh Mạng song tu về mặt nội giáo tâm truyền, đó là cứu cánh."(22-02 Bính Dần)
-
Theo Tự Điển Tiếng Việt (1991) của Viện Ngôn Ngữ Hà Nội, Ý thức hệ được định nghĩa như sau:
"Ý thức hệ là hệ thống tư tưởng và quan điểm thường phản ảnh quyền lợi cơ bản khác nhau của các giai cấp, các từng lớp xã hội."
Theo "The American Heritage Illustrated Encyclopedic Dictionary":
"Ý thức hệ là phần trọng tâm hay chính yếu của tư tưởng, phản ảnh các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân, tập thể hay một nền văn hóa."
-
Hội Yến Diêu Trì là một trong những sự kiện trọng đại của thời kỳ tiềm ẩn trong lịch sử hình thành Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Tuy nhiên, phần lớn các sử gia Cao Đài chỉ mới chuyển tải được nội dung tổng quát chứ vẫn chưa nhấn mạnh đến vài chi tiết căn bản như danh hiệu chính xác của Đấng Nữ Thiêng Liêng cao cấp gắn liền với sử kiện này là gì... Vì thế với những thông tin đã được phổ biến qua sách báo hay bài thuyết đạo của một số tác giả đã làm cho một số lớn tín hữu Cao Đài chúng ta chưa được cung cấp chi tiết thật sự chính xác theo lịch sử.
Chính vì vậy, có một nhầm lẫn khá nghiêm trọng đã xảy ra và kéo dài cho đến hiện nay! Từ sai lệch này đã dẫn đến một vài hệ lụy khác.
Để có thể khắc phục phần nào sự cố đáng tiếc này, chúng ta cần lật lại các trang sử và cất công đi tìm những chứng cứ để góp phần điều chỉnh những lệch lạc nhận thức về Đức Chưởng Quản Diêu Trì Cung hầu góp phần gầy dựng việc “thống nhứt tinh thần” cho toàn đạo với sự kiện lịch sử hết sức quan trọng này!
-
Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới, được Đức Chí Tôn khai sáng vào đầu thế kỷ XX tại Việt Nam. Với quá trình truyền đạo chỉ hơn bảy mươi năm, nhiều kinh điển, thánh giáo đã được phổ biến khá sâu rộng.
Từ năm At Tỵ 1965, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo đã được Ơn Trên dìu dắt xương minh Giáo lý Đại Đạo trên nền tảng kinh điển Cao Đài từ thời sơ khai đến nay.
Một trong những thành quả của Cơ Quan là quyển Cao Đài Vấn Đáp này, có mục đích giới thiệu Đạo Cao Đài một cách đơn giản bằng những giải đáp căn bản về nền Đạo.
Quyển sách đã được thông qua Hội Đồng Nghiên Cứu Giáo Lý Cơ Quan sau khi sửa chữa hiệu đính nghiêm túc. Tuy nhiên những ý kiến xây dựng của chư vị sẽ góp phần hoàn chỉnh công trình này hơn nữa.
Mong rằng quyển sách giúp ích được phần nào cho mọi tín hữu đạo tâm trên đường tìm hiểu Đạo Cao Đài.
Đông Chí năm Kỷ Mão, 1999
TM. Ban Thường Vụ
Cơ Quan Phổ Thông Giáo LýĐại Đạo
Hiệp Lý Minh Đạo
CHÍ HÙNG
-
1. QUAN NIỆM BẤT CẬP
° Đạo đồng nghĩa với tôn giáo?
Người ta thường cho rằng Đạo đồng nghĩa với tôn giáo. Thực ra, Đạo là nguyên lý tối thượng vận hành khắp cả càn khôn vũ trụ. Mặc dù con người không hình dung được Đạo, không cảm nhận được Đạo nhưng Đạo vẫn bàng bạc khắp trong không gian vô biên và thời gian vô tận, Đạo vẫn chan hòa trong mọi sinh hoạt đời sống của con người. Trong khi đó, tôn giáo chính là những phương tiện để đạt đến cứu cánh của Đạo. Tôn giáo có thể được xem như những cánh cửa để con người bước vào tìm cầu lẽ Đạo tận bên trong sâu thẳm.
Tôn giáo ấy cửa vào tìm Đạo,
Đạo là đường hoài bão nhơn sanh,
Người tu ý thức tri hành,
Hễ vào cửa đạo chí thành mà tu. [ Đức Giáo Tông Đại Đạo, TLĐ, 20-5 Ất Tỵ (19-6-1965)]
-
Tuy căn trí chúng sanh vô lượng, pháp môn vô lượng; hành giả không nhứt thiết phải khảo sát và thực nghiệm càng nhiều pháp môn để tìm cầu cho mình một phương pháp tu hành phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Bất luận pháp môn nào cũng đều có chỗ rốt ráo của nó và chỗ tận cùng của vạn pháp đều gặp nhau ở một chỗ duy nhất là “sự đắc nhứt” hay còn gọi là “bất nhị pháp môn”.
Thời gian có trước có sau, pháp môn theo thời gian có tân có cựu. Đại Đạo không thời gian, không sau không trước, cũng không cựu không tân. Đại Đạo vẫn là bản thể bất biến. Thế nên pháp môn vô lượng nhưng người hành giả phải đạt đến chỗ bất nhị pháp môn mới thật sự chứng quả.
