

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Tóm lược. Lịch trình hành đạo của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo – phần tu sĩ có ...
-
SƠ LƯỢC về HUYỀN BÚT CƠ trong ĐĐTKPĐ. Tý thời 14 rạng 15 tháng 3 Mậu Thân 1968, một buổi đàn ...
-
Tôi có cái tánh kỳ là hay quan sát ở việc mà ngẩm ra cái lý hay hoặc có cái ...
-
Đại Đạo không phải là tôn giáo lớn. Cái lớn của Đại Đạo là khả năng nối kết con người ...
-
Người tín đồ Cao Đài hàng ngày bắt đầu thời cúng của mình bằng bài kinh Niệm Hương với hai ...
-
Ngày nay trên thế giới, hầu hết các nhà khoa học của các ngành Khoa Học Nhân Văn như Lịch ...
-
Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ ...
-
Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh hết sức rực rỡ. Đáng lẽ từ khi loài người ...
-
Thánh giáo tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14 tháng 3 Mậu Ngọ (20-4-1978) NHƯ Ý ĐẠO ...
-
. . .Vũ trụ, quần sinh, và con ngưười có hai bình diện: - Một là bình diện Bản thể, duy ...
-
Đức Vô Cực Từ Tôn: "Kìa con ! Đời đang loạn lạc, người người mong vọng hòa bình, tôn giáo đang ...
-
Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri ...
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 31/12/2009
Quan Âm Như Lai
Lục nhựt đạo thành hiệp nhứt chi
Thứ kỷ thương nhơn tâm bất tại
Nhị nhơn thê mộc diệc nguyên quy
日 橫 二 十 見 佳 時
六 日 道 成 合 一 枝
恕 己 傷 人 心 不 在
二 人 棲 木 亦 源歸
Giải rõ thi chiết tự.
(Bạch: Con giải không nổi.)
Nghe ta giải, khá chép mỗi hàng là mười hai chữ.
Hai mươi [nhị thập], chữ Nhựt [nằm ngang], chữ Giai hiệp chữ Kiến là chữ QUAN 觀.
Chữ Lục hiệp với chữ Nhứt và chữ Nhựt là chữ ÂM 音.
Chữ Thứ mà bỏ bớt chữ Tâm còn lại là chữ NHƯ 如.
Chữ Mộc mà thêm vô hai chữ Nhơn gọi là chữ LAI 來.
Tức là QUAN ÂM NHƯ LAI 觀 音 如 來 .
Diễn dụ:
Phàm làm người ở thế gian, một kiếp phù sanh nghĩ lại chẳng bao lâu. Tuy số định trăm năm chớ ít người bảy chục, còn e hai nẻo rủi may. Đường may là nhờ kiếp làm quan trung quân ái quốc, giữ tánh thanh liêm, dạy dân lễ nghĩa, hồi đầu tỉnh ngộ lo tu, đời sau hưởng phước. Còn gặp đường rủi là làm quan chẳng dạ ngay vua, mạnh thế lộng quyền, hữu hoài soán nghịch chi tâm, chẳng giữ thanh liêm, hiếp dân thâu hối lộ, làm giàu bức hiếp kẻ nghèo mà làm cự phú, chác sự oan gia trái chủ, thời phải sanh liễu hựu tử, tử liễu hựu sanh, luân hồi chẳng dứt. Nay gặp Trời ân xá lần ba, khuyên thiện nam tín nữ lo tu bồi đạo đức mà hưởng phước ngày sau; còn người mộ việc tu hành cũng thành chánh quả. Nếu tu thời bỏ hết cuộc giàu sang vui sướng ở thế gian. Hãy biết thế gian muôn việc đều giả. Trăm kế cũng không.
Thi rằng:
Khán đắc phù sanh nhứt thế không,
Điền viên sản nghiệp diệc giai không.
Thê nhi phụ tử chung ly biệt,
Phú quý công danh tổng thị không.
Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,
Kim ngôn bá kế nhứt tràng không.
Tiền tài thâu thập đa tân khổ,
Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không .
看 得 浮 生 一 世 空
田 園 産 業 亦 皆 空
妻 兒父 子 終 離 別
富 貴 功 名 總 是 空
古 語 萬 般 都 是 假
今 言 百 計 一 場 空
錢 財 收 拾多 辛 苦
路 上 黃 泉 兩 手 空
______________________
Chú thích:
hồi đầu : quay đầu lại.
hữu hoài soán nghịch chi tâm : có lòng ấp ủ ý phản nghịch.
cự phú : người rất giàu.
oan gia : người thù oán mình; trái chủ: người mình mắc nợ. Chác sự oan gia trái chủ: Chuốc lấy cho bản thân lòng thù oán của người khác và bản thân mang nợ người khác.
sanh liễu hựu tử, tử liễu hựu sanh : hết sống lại chết, chết rồi lại sinh ra nữa, tức là luân hồi chuyển kiếp. (BBT)
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN
CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Nguyện Thứ Nhứt : Khi thành Bồ Tát
Danh hiệu tôi: Tự Tại Quán Âm
Mười hai lời nguyện cao thâm
"Nghe tiếng cứu khổ", Quán Âm thề nguyền.
Nguyện Thứ Hai : Không nài gian khổ
Quyết một lòng cứu độ chúng sanh
Luôn luôn thị hiện biển Đông
Vớt người chìm đắm, khi dông gió nhiều.
Nguyện Thứ Ba: Ta Bà ứng hiện
Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan oan tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở, mau mau cứu liền.
Nguyện Thứ Tư: Hay trừ yêu quái
Bao nhiêu loài ma quỉ gớm ghê
Độ cho chúng hết u mê
Dứt trừ nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
Nguyện Thứ Năm: Tay cầm dương liễu
Nước cam lồ rưới mát nhân thiên
Chúng sanh điên đảo, đảo điên
An vui mát mẻ, ưu phiền tiêu tan.
Nguyện Thứ Sáu : Thường hành bình đẳng
Lòng từ bi thương xót chúng sanh
Hỷ xả tất cả lỗi lầm
Thường hành bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
Nguyện Thứ Bảy : Dứt ba đường dữ
Chốn ngục hình, ngạ quỉ, súc sanh
Cọp beo... thú dữ vây quanh
Quán Âm thị hiện, chúng sanh thoát nàn.
Nguyện Thứ Tám : Giải thoát còng la
Nếu tội nhân sắp bị khảo tra
Thành tâm lễ bái thiết tha
Quán Âm phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng.
Nguyện Thứ Chín: Cứu vớt hàm linh
Trên con thuyền Bát Nhã lênh đênh
Bốn bề biển khổ chông chênh
Quán Âm độ hết, đưa lên Niết Bàn.
Nguyện Thứ Mười : Tây phương tiếp dẫn
Tràng hoa thơm, kỹ nhạc, lọng tàn
Tràng phan, bảo cái trang hoàng
Quán Âm tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
Nguyện Mười Một : Di Đà thọ ký
Cảnh Tây phương, tuổi thọ khôn lường
Chúng sanh muốn sống miên trường
Quán Âm nhớ niệm, Tây phương mau về.
Nguyện Mười Hai : Tu hành tinh tấn
Dù thân này tan nát cũng đành .