Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Hội Đồng Tiền Bối Đại Đạo dạy tại NTTT vào ngày Mùng 1 tháng Giêng năm Canh Tuất 1970
-
“Khi các con đã thật lòng bác ái, các con không còn thấy người sang kẻ hèn, người dại kẻ khôn, người uy quyền kẻ yếu đuối, người thân kẻ sơ. Đã không chia cách như vậy, lòng các con là một cõi bồ đề, một cõi niết bàn, một Cung Diêu Trì và chính con sẽ ở trong Thượng Đế.” ./.
-
Thấy chăng anh
Nước Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy băng ra biển chẳng quay về.
Lại chẳng thấy
Lầu cao gương sáng thương đầu bạc
Sớm tựa tơ xanh, chiều đã tuyết
Đời khi đắc ý hãy nên vui
Chớ để chén vàng trơ trước nguyệt.
-
Qua một kiếp Ngài giáng trần bên Trung Quốc dưới triều đại nhà Đường, Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài với khoảng 20.000 bài thơ, Ngài đã được tôn vinh là một trong những đại thi hào tài hoa của phương Đông
-
Trong khi đi tìm một giáo lý thuần nhất về vũ trụ và con người qua các tôn giáo chúng ta đã được thuyết minh về phạm trù đại vũ trụ và phạm trù tiểu vũ trụ. Cái trước là một thực tại nhất thể bao dung cả vật chất lẫn tâm linh trong đó mọi biến hóa sanh thành của vạn vật đều được qui định bất biến bởi một bản thể duy nhất đồng nhất, một động lực duy nhất tuyệt đối và một qui trình nhất định. Cái sau là thực tại đồng nhất với cái trước đang vận động trong một qui phạm giới hạn nhưng đặc điểm của nó là vẫn góp phần vào cái trước một cách tự nhiên vừa có khả năng phát triển đến cũng cực một khi đạt đến ý thức tự chủ của một tiểu vũ trụ.
Cái ý thức tự chủ đó là sự “nhất quán” được đạo lý trong vũ trụ vạn vật. Cao Đài gọi là Đắc Nhất. Đắc Nhất là đứng ở vị trí của chính Trung và chấp hành được Quyền Pháp.
-
"Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy chánh giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi...."
(Thánh giáo của Đức Chí Tôn)
-
Ngũ Chi Đại Đạo là Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện và Minh Tân. Minh Sư có nguồn gốc từTrung Hoa, truyền qua Việt Nam vào năm 1863. Minh Đường có nguồn gốc từ Minh Sư.
Ba chi Minh Lý ([1]), Minh Thiện và Minh Tân được Ơn Trên chuẩn bịcó mặt ở miền Nam Việt Nam vài năm trước khi đạo Cao Đài ra đời để làm điều kiện yểm trợcho công cuộc khai mở Đại Đạo Tam KỳPhổ Độ.
Không kể Minh Lý, một sốthánh sở của bốn chi đạo Minh Sư, Minh Đường, Minh Thiện và Minh Tân đãquy hiệp Cao Đài và ngày nay vẫn còn.
Ngoài bốn chi nói trên, vào những ngày đầu khai Đạo, các đàn phổ độ của đạo Cao Đài thường lập tại tư gia hoặc mượn một sốchùa Phật như:
Hội Phước Tự, Trường Sanh Tự của Yết Ma • Luật (ở Cần Giuộc, Long An).
Long Thành Tự, Phước Linh Tự của Yết Ma • Nguyễn Văn Xoài (ở Cần Đước, Long An).
Vạn Phước Tự của Yết Ma Lê Văn Nhung (ở • Hốc Môn, Gia Định).
Phước Long Tự của Yết Ma Giống (ở Chợ• Đệm, Bình Chánh).
Thiền Lâm Tự (chùa Gò Kén) của Hòa Thượng • Như Nhãn (ở Long Thành, Tây Ninh).
-
Người tôn giáo sống trong khung cảnh bao quát cởi mở và yêu thương đại đồng, luôn luôn có những cái nhìn đầy sự hòa nhã khiêm tốn vui tươi với đồng loại. Từ những nhận thức nầy, chư hiền cũng nên biết một cách khái quát về nhân hòa.
Từ ngày xưa, cũng đã có người muốn thực hiện đường lối bình thiên hạ với ba điều chánh yếu: Thiên thời , Địa lợi và Nhân hòa. Nhưng nhân hòa mới là đối tượng, còn hai điểm kia chỉ là hỗ trợ một cách khách quan mà thôi.
-
Vào năm 875, một vương triều mới xuất hiện tại vương quốc Champa cổ : Vương triều Indrapura, do vua Indravarman II sáng lập. Cùng với sự ra đời của triều đại này là sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo và tôn giáo này đã chiếm ưu thế tuyệt đối ở Champa thay thế cho Siva giáo trước đó.
-
CHƯƠNG THỨ HAI
NGUYÊN NHÂN ĐỨCTHƯỢNG ĐẾ KHAI ĐẠO TẠI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM
PHÁP MÔN TAM CÔNG
SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
MỤC ĐÍCH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
TÍNH DÂN TỘC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT
-
BỘ THIẾT GIÁP CỦA NGƯỜI TU
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1, Thầy đã dạy như sau: "Bởi vậy cho nên Thầy chẳng vì ghét mà không lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình; chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con; song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con. Vậy ráng gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy. Nghe và ráng tuân theo."[1]
[1] Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển 1, 1948, trang 9.
-
Tân pháp Cao Đài không cực đoan, không lập dị, không đòi hỏi ép xác khổ tu, không mong vọng thần thông bí pháp.
