Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
LTS:Tháng 10-2006, tại Hội nghị APEC diễn ra ở nước ta, 21 vị nguyên thủ quốc gia đã mặc quốc phục VN là chiếc áo dài, nhưng còn thiếu chiếc khăn đóng trên đầu, bởi vì nam phái mặc áo dài phải có chiếc khăn đóng mới đủ bộ y phục truyền thống.
Đạo phục đạo Cao Đài tiêu biểu được truyền thống quốc phục dân tộc, áo dài trắng với chiếc khăn đóng đen, tùy theo chức sắc, trên khăn đóng còn có chữ "Đạo" hay hình "Thiên Nhãn".
Không biết tự bao giờ, chiếc khăn đóng trở nên hình ảnh đặc trưng của văn hoá VN,
NCGL xin giới thiệu bài viết của tác giả Mạc Tuấn đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng- Chúa nhựt 11-2-2007 do Chí Như sưu tầm.
-
Trướt hết, cần tìm hiểu hai chữ "đồng hành".
Theo nghĩa hẹp, đồng hành là "cùng đi", nhưng cùng đi trong tình huống nào ? Đi cùng một lúc hay cùng một đường, và có cùng đi đến một mục đích hay một địa điểm không ?
Nên đồng hành còn có nghĩa rộng rất quan trọng.
-
1. Đạo Cao Đài do ai sáng lập ?
Đạo Cao Đài do Đức Cao Đài Thượng Đế tức Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà Thiên Chúa giáo gọi là Đức Chúa Trời,11 Do Thái giáo gọi là Đức Jéhovah ; Hồi giáo gọi là Đức Alah sáng lập tại nước Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua các sự kiện chính yếu sau đây :
- Vào đầu năm 1921, qua phương tiện thông linh bằng cơ bút (giáng cơ), Đức Thượng Đế lần đầu tiên xưng danh là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và chánh thức thâu nhận Ngài Ngô Văn Chiêu làm đệ tử đầu tiên.
- Sau khi các vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vâng lịnh làm lễ vọng thiên cầu đạo vào ngày mùng 1 - 11 - Ất Sửu (16-12-1925); ngày 19-12-1925 Đức Thượng Đế giáng cơ mừng cho các Ông :
"Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài"
Đêm Lễ Giáng Sinh 24-12-1925, Ngài giáng cơ dạy như sau:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương,
"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên;
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên."
(TNHT, QI,1973, tr.5)
Vậy Đạo Cao Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Đức Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát sáng lập.
-
[Ảnh: Miếu Thần Nông tại đình Bình Thủy]
Trong quá trình Nam tiến, cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam bộ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa gây ra, thú dữ hoành hành. Cuộc sống ngày càng ổn định, thiết chế văn hóa làng xã cũng bắt đầu hình thành.
-
Đạo Cao Đài (tên gọi tắt của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) được khai minh trên mảnh đất Việt Nam vào những năm 20 của thế kỷ trước. Theo đức tin của đạo hữu, tôn giáo này do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (hay còn gọi là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) mở ra tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua huyền diệu cơ bút thông linh mà thâu nhận, truyền dạy các đệ tử mà về sau là những tiền khai xây dựng nên.
-
Pháp tu luyện huyền môn Bác Nhã,
THÍCH, ĐẠO, NHO gồm cả thiên nhơn;
Cũng đồng phá vọng hiển chơn,
Thành PHẬT nhập THÁNH, đắc đơn cũng là.
-
Trong môn họa truyền thống của Trung Quốc (thường được gọi là Quốc Họa) ta thường bắt gặp những chủ đề ước lệ quen thuộc được thể hiện với màu sắc đậm nhạt thích mắt, thậm chí những màu tươi vui sặc sỡ...
-
Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo gồm Cựu Ước và Tân Ước. "Cựu ước" có nghĩa là "giao ước cũ", trình thuật về diễn tiến lịch sử dân Do Thái, trong đó có mấy lần Thiên Chúa Yavê giao ước với loài người: lần I, giao ước với Noê; lần II, giao ước với Abraham, tổ phụ dân Do Thái ; lần III, sau khi dân Do Thái rời khỏi Ai Cập, Thiên Chúa truyền "Mười điều răn" và giao ước với toàn dân trên núi Sinai qua trung gian Mosê. "Tân ước" là "giao ước mới" giữa Thiên Chúa và loài người được hiện thực nơi một nhân vật lịch sử mang thiên tính là Đức Giêsu, vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Thiên Chúa.
-
SƠ LƯỢC về HUYỀN BÚT CƠ trong ĐĐTKPĐ.
Tý thời 14 rạng 15 tháng 3 Mậu Thân 1968, một buổi đàn cơ đặc biệt được tiến hành tại Tam Giáo Điện Minh Tân, bến Vân Đồn quận tư Sài Gòn. Đặc biệt, là do bởi đàn cơ nầy được thực hiện không theo phương cách và hình thức cầu cơ thông dụng của Cao Đài Giáo: dùng đồng tử thủ Đại Ngọc Cơ để Ơn Trên giáng điển viết chữ cho độc giã đọc hoặc cho đồng tử xuất khẫu. Trái lại trong buổi đàn cơ nầy, các đấng Thiêng Liêng dùng huyền linh điển làm cho một ngòi bút nhỏ được treo bằng một sợi chỉ tự động di chuyển trên một bảng chữ cái tiếng Việt. Ngòi bút di động đến mẫu tự nào thì đọc giả xướng lên cho điển ký ghi lại chữ đó và cứ thế mà ráp vần. Theo tài liệu còn lưu lại, số người dự buổi đàn đặc biệt đêm hôm đó gồm: bộ phận hành sự Huyền Cơ, bộ phận Hiệp Thiên Đài và nam nữ đạo hữu, tất cả là 106 vị.
-
Theo Tự Điển Tiếng Việt (1991) của Viện Ngôn Ngữ Hà Nội, Ý thức hệ được định nghĩa như sau:
"Ý thức hệ là hệ thống tư tưởng và quan điểm thường phản ảnh quyền lợi cơ bản khác nhau của các giai cấp, các từng lớp xã hội."
Theo "The American Heritage Illustrated Encyclopedic Dictionary":
"Ý thức hệ là phần trọng tâm hay chính yếu của tư tưởng, phản ảnh các nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân, tập thể hay một nền văn hóa."
-
Ngài Bác Nhã Thiền Sư trong bài Chánh Pháp Nhãn Tạng – Niết Bàn Diệu Tâm đã cho chúng ta biết có bốn loại Tâm là Duyên Lự Tâm, , Tư Lương Tâm, Tích Tập Tâm và Kiến Thật Tâm hay Thể Tánh Thường Trụ. Tuy nói bốn, chớ kỳ thật cũng có một Tâm mà thôi. Đại lược cho ta thấy sự động tịnh của Tâm, Thánh Phàm của nó.Thể của Tâm ví như tánh “ướt”, Tướng của Tâm ví như nước lưu chuyển, Dụng của Tâm như sóng gió, sông ngòi, rong rêu, tôm cá, cù lao, bọt sóng. Tâm là một biển thức, sóng nổi cuồn cuộn, ầm ỉ đêm ngày là do gió “nghiệp” khởi lên. Gió là vô minh, sóng là nghiệp thức. Phá vô minh thì mọi sự an lành, mà phá được vô minh, trừ khi Bác Nhã không còn phương nào khác.
“Bác Nhã là gì ? Là “Giác”.
-
Ý nghĩa đầy đủ của TCH chính là ước muốn giao lưu, kết hợp giữa con người trên thế giới, sự liên thông các lãnh vực trong đời sống xã hội, trong đó chắc chắn có tôn giáo. Ý nghĩa TCH trong lãnh vực tôn giáo thật ra không phải là mới mẻ, bởi lẽ, bất kỳ tôn giáo nào cũng có sứ mạng đưa giáo lý của mình đến quãng đại chúng sanh, giúp con người đạt trạng thái quân bình và hướng xã hội nhân loại tới chân thiện mỹ.
