Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
THƯỢNG trí NGỌC tâm hãy ráng giồi,
TRUNG kiên, LỊCH lãm đạo như đời,
NHỰT tăng NGUYỆT tụ tuần nhi tiến,
Giáng điển giải phân mối Đạo Trời.
THƯỢNG TRUNG NHỰT, NGỌC LỊCH NGUYỆT. Nhị Hiền Huynh chào mừng chư hiền đệ, chư hiền muội.
Nhị Hiền Huynh thừa sắc lịnh Tam Giáo Tòa và Đức Đông Phương Chưởng Quản, đại diện toàn thể các vị Tiền Bối Lưỡng Đài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, giáng cơ để trợ lực chư đệ muội trên bước đường hành đạo, củng cố Cơ Quan, để tiến hành cho kịp thời cơ vận chuyển của ĐạoTrời. Nhị Hiền Huynh mời toàn thể đệ muội an tọa.
Hiền đệ Tham Lý Minh Đạo hãy dâng bản Dự Án Quy Điều để kịp thời chỉnh đốn.
-
Hai thiên Đại Học và Trung Dung trong Tiểu Đái Lễ Ký có ảnh hưởng rất lớn trong triết học Trung Quốc sau này. Chu Hi 朱 熹 (1130-1200) xem Đại Học là của Tăng Tử 曾 子 , còn Vương Bách 王 柏 (1197-1274) xem nó là của Tử Tư 子 思 (cháu nội Khổng Tử).(hình bên )[1]
-
Các nhà viết sử đều tỏ thái độ rất trân trọng đối với nhà thơ Lý Bạch (701-762) về mặt tư tưởng phóng khoáng thanh cao và tài năng thi phú. Nhưng chẳng phải với bấy nhiêu vốn đáng trân trọng đó mà chơn linh nhà thơ Lý Bạch, sau khi về cõi trên, được Đức Chí Tôn giao phó trọng trách Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ...
-
Từ chánh niệm đến vô niệm
Thiện Chí
Người tu hành chín chắn trước sau đều phải học tâm pháp. Điểm rốt ráo của tâm pháp là dạy cho hành giả thực hành tâm thanh tịnh, kềm tâm giữ ý để khỏi vọng tưởng mọi sự mọi việc. Vọng tưởng tức là tạp niệm. Dứt vọng tưởng, tâm hoàn toàn thanh tịnh là tâm vô niệm.
-
. . .Không kể các thánh sở trong phạm vi nội ô ở các Tòa Thánh, ở mỗi Hội Thánh đều có các thánh sở Cao Đài đặc biệt về hình thức cũng như nội dung. Riêng các thánh sở đơn lập, phần nhiều mỗi thánh sở đều có đặc điểm riêng tùy theo lời dạy của Ơn Trên.
-
Trong bài DI LẠC CHƠN KINH mà người tín đồ Cao Đài thường tụng đọc vào các ngày rằm lớn, hay khi cầu siêu cho các vong linh quá vảng. Bài Kinh nầy do Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết giảng, có một đoạn như sau: ... " Nhược hữu chúng sanh văn Ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Đa-la Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề thị chi chứng quả Niết Bàn."... Có nghĩa là : Nếu như có ai nghe biết lời nói của Ta, thì tự nhiên thoát khỏi các nghiệp ác, hãy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhìn nhận và tùng theo Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, ắt được giải thoát khỏi luân hồi đồng thời đắc đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ấy là chứng được quả vị nơi Cực Lạc Niết Bàn .
-
Trước khi Lão muốn chỉ đường vẽ lối cho các phận sự Ngọc Minh Đài, Lão muốn nói với toàn cả chư đệ muội rằng: Thế sự ngày nay không thể phân biện được ngày mai, vì bao nhiêu cảnh trạng mờ tối đã và đang luôn luôn diễn tả trước mắt mọi người, nào lợi danh, nào quyền tước, nào tiền bạc, nào truy hoan, thì còn định làm sao được, khi con thuyền ở giữa dòng khơi, chịu muôn ngàn sóng gió, tất cả mọi người đều nắm một giây được một giây, cầm một phút hay một phút, yên một ngày tự đắc một ngày, không tìm một lối thoát để nhìn một tương lai vĩ nghiệp đang chờ đợi huy hoàng, mà tất cả nhân sinh trong hoàn cầu đều có đặc phần của mỗi giống. Ví như ngày nay, chư hiền đệ, hiền muội đã hy thân hành đạo, tất nhiên hiểu đạo như thế nào, sẽ là con đường toàn thiện, toàn mỹ, sẽ là chiếc thoàn từ vững vàng trên sóng gió, sẽ là bảo đảm đời hiện tại, nên mới không nài gió mưa sương nắng, để đeo đuổi theo mục đích cao cả trên đời. Thật là hạnh phúc cho Nam Bang.
-
Vạn lý trường thành dài hơn 6700 km, bắt đầu được xây dựng vào đầu thế kỷ 3 TCNđể ngăn quân "du mục" từ phương Bắc, và cũng đã được xây lại nhiều lần. (hình bên)
Trung Quốc (Hoa phồn thể: 中國; Hoa giản thể: 中国; Hán Việt: Trung Quốc; bính âm: Zhōngguó; Wade-Giles: Chung-kuo; phát âm (trợ giúp·chi tiết)) là tổng hợp của nhiều quốc gia và nền văn hóa đã từng tồn tại và nối tiếp nhau tại Đông Álục địa, cách đây ít nhất 3.500 năm. Trung Quốc ngày nay, có thể được coi như có một hay nhiều nền văn minhkhác nhau, nằm trên một hay nhiều quốc giakhác nhau, sử dụng một hay nhiều ngôn ngữ khác nhau.
-
Nếu kể từ đêm giao thừa Bính Dần 1926 đến giao thừa Ất Mùi 2015 này thì người Cao Đài đã trải qua 79 lần đón mùa xuân Đạo.
Giao thừa là giờ khắc chuyển đổi của thời gian, đồng thời với không gian, cảnh vật, sinh hoạt và tâm tư con người.
Thời khắc ấy càng đến gần, mọi người càng hối hả sửa sang, trang hoàng, đổi cũ thay mới trong nhà ngoài cửa để đón mừng năm mới, mừng ngày tháng đầu tiên của một năm và sự khởi phát tân xuân.
-
Theo cuốn Hội chân biên của Thanh Hoà Tử, in vào năm thứ 7 đời Thiệu Trị (1847), thì ở Việt Nam có 27 vị Thần sinh ra hay đã từng sống trên đất nước ta trong đó có 14 vị là các nữ thần. Do sự lựa chọn tài tình của dân gian, trong các vị thần linh ấy có bốn vị được suy tôn là Tứ bất tử (bốn vị Thánh bất tử): Đức Thánh Tản, Chử Chử Đồng Tử , Đức Thánh Gióng, Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
-
Thời kỳ Tam Quốc (Hoa phồn thể: 三國, Hoa giản thể: 三国, Pinyin: Sānguó) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Một cách chính xác theo khoa học thì nó bắt đầu vào năm 220 khi nhà Ngụy được thành lập và kết thúc năm 280 khi nhà Ngô sụp đổ và nhà Hậu Tấn thống nhất Trung Hoa.
-
SƠ LƯỢC về HUYỀN BÚT CƠ trong ĐĐTKPĐ.
Tý thời 14 rạng 15 tháng 3 Mậu Thân 1968, một buổi đàn cơ đặc biệt được tiến hành tại Tam Giáo Điện Minh Tân, bến Vân Đồn quận tư Sài Gòn. Đặc biệt, là do bởi đàn cơ nầy được thực hiện không theo phương cách và hình thức cầu cơ thông dụng của Cao Đài Giáo: dùng đồng tử thủ Đại Ngọc Cơ để Ơn Trên giáng điển viết chữ cho độc giã đọc hoặc cho đồng tử xuất khẫu. Trái lại trong buổi đàn cơ nầy, các đấng Thiêng Liêng dùng huyền linh điển làm cho một ngòi bút nhỏ được treo bằng một sợi chỉ tự động di chuyển trên một bảng chữ cái tiếng Việt. Ngòi bút di động đến mẫu tự nào thì đọc giả xướng lên cho điển ký ghi lại chữ đó và cứ thế mà ráp vần. Theo tài liệu còn lưu lại, số người dự buổi đàn đặc biệt đêm hôm đó gồm: bộ phận hành sự Huyền Cơ, bộ phận Hiệp Thiên Đài và nam nữ đạo hữu, tất cả là 106 vị.
