

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

-
Hiện nay các nhà khoa học đều cho rằng những gì mà chúng ta nhìn thấy trong thực tại đều ...
-
Khi nói về đức tin, Ðức Phật đã dạy về 10 cơ sở của đức tin chân chánh: 01. Chớ vội ...
-
Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo đã diễn ra tại Thiền Lâm Tự - Gò Kén Tây Ninh, sau khi ...
-
Đề tài : Phụ nữ với sứ mạng trưởng dưỡng bảo tồn GIÁO HỘI TIÊN THIÊN - Thánh Tịnh AN TIÊN, Tý ...
-
Sống Đạo /
Cửa đạo luôn luôn rộng mở, hay nói một cách khác, ngưỡng cửa tôn giáo lúc nào cũng sẵn sàng ...
-
Tín ngưỡng và tôn giáo là những đề tài phong phú xưa nay đã thu hút rất nhiều học giả, ...
-
Này chư hiền đệ, sự tiến hóa của con người từ loài côn trùng thảo mộc thú cầm cho đến ...
-
Những biến động trên thế giới trong những năm gần đây khiến người ta suy nghĩ về nguyên nhân sâu ...
-
Thánh giáo Cao Đài đã viết : "Nguyên thỉ con người không tự có tôn giáo, vì tự trong sâu ...
-
Các nhà khoa học, nhân chủng học cũng như các tôn giáo đều công nhận CON NGƯỜI là một sinh ...
-
Lời báu nào cần vẽ rắn rồng, Bao nhiêu đã đủ gọi thành công. Tu vì đại nghĩa không vì phẩm, Luyện bởi ...
-
Chín trùng Mẹ đến với con thơ, Chứng ở lòng con biết kỉnh thờ, Ân huệ sẵn dành bao Hạ quí, Phước hồng ...
Lê Anh Dũng
Lòng bao dung Tam Giáo của dân tộc Việt Nam
Từ những thế kỷ I, II, ba nền tôn giáo Nho, Thích, Lão đã sớm được nhân dân Việt Nam tiếp nhận và dung nạp.
Các thế kỷ X, XI, XII với các triều đại đinh, Lê, Lý, Trần đã đánh dấu một thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc, mở ra một thời kỳ hào hùng vừa giữ nước vừa dựng nước. Hoàn cảnh lịch sử khách quan đòi hỏi giới quân sự phải biết trọng dụng trí thức. Giới Nho sĩ thời ấy chưa hình thành, phải đợi đến triều Hậu Lê mới phát triển cực thịnh. Thậm chí, trong những buổi đầu của đất nước vừa giành được độc lập, trường tư của các cụ đồ có lẽ cũng không có, nhiều người học chữ với các sư tại các chùa. Các sư vì muốn đọc được kinh Phật phải học chữ Nho, mà học chữ Nho thì thông qua kinh sách đạo Khổng. Cho nên không lấy làm lạ là các sư cũng giỏi cả Nho học, nhiều sư tinh thông cả Dịch học của Nho, khoa địa lý phong thủy của Lão (thí dụ như Thiền sư Vạn Hạnh). Tóm lại, tầng lớp trí thức thời xưa tập trung chủ yếu là giới tu hành, vừa tăng, vừa đạo sĩ.
Các nhà tu hành trí thức này có ý thức quốc gia, có lòng yêu nước trong sáng, học vấn uyên bác về cả giáo lý của đạo mình mà còn hiểu được kinh điển của đạo khác, nên có một tinh thần đại đồng, không bị hình thức sắc tướng làm mê chấp, do đó các vị ấy đã sớm biết đoàn kết, đứng chung dưới ngọn cờ dân tộc để phù trợ chặt chẽ cho chính sách, đường lối của triều đình, cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Qua bốn triều đại tiêu biểu là Đinh, Lê, Lý, Trần, hoàn cảnh lịch sử đã làm cho Việt Nam trở thành mảnh đất tốt để Tam giáo lớn mạnh trong lòng bao dung của người Việt.
Các vua Đinh Tiên hoàng (968-979), Lê Đại hành (980-1005), Lý Thái tổ (1010-1028), v.v... đã chọn các đại sư, đạo sĩ vào triều đình làm cố vấn. Năm 971, vua Đinh Tiên hoàng phong Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, phong Thiền sư Đặng Huyền Quang làm Sùng chân Uy nghi, phong Đạo sĩ Trương Ma Ni làm Tăng lục Đạo sĩ. Vua Lý Thái tổ dựng chùa Vạn tuế, cất cung Thái thanh ngay tại kinh thành Thăng Long.[2] Vua Lý Thái tổ còn tôn Thiền sư Vạn Hạnh lên làm Quốc sư. Vua Lý Nhân tông (1027-1127) đi đâu cũng hay kề cận Thiền sư Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền. Vua có lần thử tài hai vị, rất khâm phục nên làm thơ khen tặng rằng:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo hựu huyền
Thần thông kiêm biến hóa
Nhất Phật, nhất Thần tiên.[3]
(Giác Hải lòng như biển
Thông Huyền đạo pháp lại càng huyền diệu
Đều giỏi thần thông biến hóa
Một vị là Phật, một vị là Thần tiên.)
Trong buổi đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc, các vua còn có quyết định tuyển chọn nhân tài giúp nước thông qua hai kỳ thi về Tam giáo. Lần thứ nhất mở năm 1195, triều Lý Cao tông. Lần thứ hai mở năm 1247, triều Trần Thái tông.
Với tinh thần khoáng đạt, các nhà sư khi cố vấn hoặc gián nghị các vua đều không câu chấp, lúc thì vận dụng Lão, khi trưng dẫn Nho để thuyết phục.
Pháp sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đã được Vua Lê Đại hành hỏi về vận nước, Ngài khuyên Vua dùng đường lối vô vi của đạo Lão:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.[4]
(Đất nước như dây leo rối rắm
Nay trời Nam đã hưởng thái bình
Dùng đường lối vô vi nơi triều đình
Xứ xứ đều sẽ dứt cảnh đao binh.)
Năm 1130, khi vào điện Sùng khai, Thiền sư Viên Thông (1080-1151) đã mượn tư tưởng Kinh Dịch tâu với vua Lý Thần tông (1128-1138) về cái lẽ hưng vong, đắc thất của một nước. Sau khi nhấn mạnh rằng một nước hưng thịnh hay suy vong không phải tự nhiên một sớm một chiều, Sư kết luận:
"Các bậc thánh vương đời trước đều biết như thế nên đều bắt chước trời, không ngừng trau đức để sửa mình; bắt chước đất, không ngừng trau đức để yên dân. Sửa mình thì cẩn thận ở trong lòng, run sợ như đi trên băng mỏng. Yên dân thì yêu mến người dưới, hãi hùng như cỡi ngựa nắm dây cương sờn." [5]
Năm 1202, Thiền sư Nguyễn Thường, là Tăng phó, khuyên can vua Lý Cao tông:
"Tôi nghe bài Tựa Kinh Thi có nói: Âm nhạc của nước loạn nghe ai oán vì giận chính sự nước ấy sai trái. Âm nhạc của nước mất nghe bi thảm vì xót dân nước ấy khốn cùng.
"Nay Chúa thượng rong chơi vô độ, chính giáo sai lìa, dân chúng buồn khổ. Đến nay càng tệ. Thế mà ngày ngày lại nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nước mất, nước loạn hay sao?" [6]
Một số sự kiện lịch sử như trên cho thấy trong buổi đầu, Tam giáo được giao hòa trên nước Việt trong lòng bao dung của người Việt, chính đây là sự manh nha của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên.
LÊ ANH DŨNG
CHÚ THÍCH
[1] Chương IV đã in trong tập san Văn hóa & đời sống, chủ đề Cái thiện cái ác. Nxb Tp.HCM, tháng 9-1992.
[2] Lê Quý Đôn toàn tập. Tập II: Kiến văn tiểu lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1977, tr. 368, 387. Trần Văn Giáp, Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII. Tuệ Sỹ dịch. Sài Gòn: Viện đại học Vạn Hạnh, 1968, tr. 151, 153.
[3] Thơ văn Lý - Trần. Tập I. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1977, tr. 434,435.
[4] Thơ văn Lý - Trần. Tập I, tr. 204.
[5] Thơ văn Lý - Trần. Tập I, tr. 142. Huệ Chi dịch.
[6] Thơ văn Lý - Trần. Tập I, tr. 528. Phạm Tú Châu dịch.
HẾT CHƯƠNG IV