Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Đề tài: Phương pháp vô tư tự kiểm để tinh tiến
Minh Lý Thánh Hội - Tuất thời 16 tháng 6 Canh Tuất (18.07.70)
-
Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân , họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương, hiệu Lão Đam, là một vị tư tưởng gia nổi tiếng vào những năm cuối thời đại Xuân Thu. Trong Đạo Giáo, được tôn là vị Tổ sáng lập nên tín đồ xưng Ngài là “Đạo Đức Thiên Tôn”, “Thái Thượng Lão Lý Quân”, “Thái Thượng Đạo Tổ”, “Vô Cực Lão Tổ”, “Tam Thanh Đạo Tổ”, “Lão Quân Gia”, “Vô Cực Chí Tôn”, “Vô Cực Thánh Tổ. Ngài sanh ngày mười lăm tháng hai năm Canh Thìn , tức năm thứ mười đời vua U Vương nhà Châu (Chu), người ở lý (xóm ấp) Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ , thuộc nước Sở. (hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam-NT)
-
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
-
Học Dịch có thể chia ra làm hai đường lối:
1. Một là học gốc Dịch tức là chuyên khảo về Vô Cực, Thái Cực, tìm hiểu về nguồn gốc của vũ trụ và con người.
2. Hai là học ngọn Dịch tức là khảo sát về lẽ Âm Dương tiêu trưởng của trời đất, tuần tiết thịnh suy của hoàn võ, tức là học về các Hào, Quải, học về Tượng, Từ, Số.
Học Dịch theo lối thứ nhất sẽ giúp ta tìm lại được căn nguyên của tâm hồn và biết đường tu luyện để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ, Phản bản, Hoàn nguyên.
Học Dịch theo lối thứ hai có thể giúp ta tiên tri, tiên đoán phần nào vận hội, khí thế của lịch sử nhân loại, cũng như những động cơ biến hóa trong hoàn võ.
-
"Ta gởi lời này cho tất cả nhân sinh trên cuộc đời đang có, từ dân tộc nghèo đói dốt nát mù mịt nhứt tới bầu trời đầy ánh sáng văn minh tiến bộ. Hãy rao lên tiếng nói của mục đồng giữa độ chiều tà đang chực chờ rủ bóng."
-
"Dầu tôn giáo nào cũng đều giáo dân vi thiện, đều áp dụng giới luật quy điều, trì tâm tu kỷ. Tuy trên hình thức có vẻ đặc biệt, nhưng suy kỹ thì đó là nếp sống của con người hiền thánh, tiên phật. Bởi vì thế gian là cõi tạm; mọi cái hữu hình được hiện bày trên thế gian do vạn vật hóa sanh theo đức háo sanh của Tạo Hóa. Tất cả những hình tướng vạn hữu đều do cơ vi luân động của Đạo mầu mà luân chuyển trường tồn, sanh sanh hóa hóa. Những hình thái biến hiện muôn màu, những hương thơm tho, những ánh sáng chan hòa đẹp đẽ làm cho tâm hồn nhơn loại ưa thích mến chuộng, theo đuổi và say sưa đến nỗi quên mất tánh lành vốn cũ, chất phác hồn nhiên, gây nhiều tội nghiệp trái oan, để tiến mãi trong vòng thiên luân vô định.
-
Xuân rằng đến chẳng vì ai ! Xuân đến theo lẽ tự nhiên của đất trời. Chẳng vì có hoa mai, hoa đào nở. Bởi mai, đào trổ đẹp để chào Xuân! Người vật đón Xuân thật tưng bừng ! Có phải tình riêng hay ý chung?
Thế là thiên nhiên luôn lập lại những chu kỳ để vạn vật tăng trưởng, tiến hóa. Từ Xuân vào Hạ sức sống cực thịnh thăng hoa, cảnh sắc huy hoàng. Sang Thu, nắng dịu, mưa phùn, khí lực tiềm tàng trong muôn loài như lắng đọng lại. Cho hay cơ tiến hóa không thể bạo hành, bất cập. Đó là lý bảo tồn, khỏi sa vào vòng tự diệt.
“ Xuân là Đạo, là tâm. Xuân cũng là luật tắc vận hành từ chỗ xuất sanh đến khi phản bổn.”
-
Người tôn giáo sống trong khung cảnh bao quát cởi mở và yêu thương đại đồng, luôn luôn có những cái nhìn đầy sự hòa nhã khiêm tốn vui tươi với đồng loại. Từ những nhận thức nầy, chư hiền cũng nên biết một cách khái quát về nhân hòa.
Từ ngày xưa, cũng đã có người muốn thực hiện đường lối bình thiên hạ với ba điều chánh yếu: Thiên thời , Địa lợi và Nhân hòa. Nhưng nhân hòa mới là đối tượng, còn hai điểm kia chỉ là hỗ trợ một cách khách quan mà thôi.
-
Này chư hiền đệ muội ! Thiền là tâm vô niệm. Định là dừng lại tất cả. Chỗ công phu này đòi hỏi hành giả phải ngày ngày tu tập để đến khi cần hòa hợp cùng vận khí cơ thiên, mới có đủ tinh thần mà phóng điển lực trong cuộc điều hành vận chuyển, từ nhơn thân đến vũ trụ. Nếu công phu còn hời hợt non kém, nhân thể còn bị bốn mùa tám tiết đổi thay, đời sống vật chất lại chi phối rất nhiều làm tinh thần mờ mịt, nên vào thiền, tâm chưa dứt niệm, thân thể nặng nề, tê nhức, ngứa ngáy đủ điều, định chưa được nên bị hôn trầm ngủ gà ngủ gật, ngồi lưng chưa thẳng nên tâm hỏa không thông, đầu cúi quá tầm thân cong nên thổi phù chưa suốt. Đó là bịnh chung của hành giả, nên chi công phu còn non kém, cần có tịnh đường kín đáo để tránh hàn khí tà độc nhiễm vào sanh bịnh.
-
. . . . . Đã Chính Trung thì làm thế nào cho ra Chính, cho phải Trung? Nên “dung ngôn” cần phải Tín, dung hành cần phải Cẩn. Tín và Cẩn là bước đầu của người quân tử xây dựng bản thân, để đủ chí thành bên trong, nuôi giữ cái tâm háo đức lạc thiện, lộ cái chí cao khiết ra bên ngoài, làm thước mực cho con người.
-
Cụm từ Tam Kỳ Phổ Độ bao hàm hai ý nghĩa:
Ý thứ nhất: Diễn tả lần lượt cho ba lần (ba kỳ) Trời gieo mối Đạo xuống trần gian; gồm Nhất kỳ (kỳ thứ nhất), Nhị kỳ (kỳ thứ nhì), và Tam kỳ (kỳ thứ ba).
Ý thứ hai: Nói riêng cho lần phổ độ thứ ba.
Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ còn có nghĩa là Đạo Cao Đài. Phần trình bày này nhằm phân tích ý thứ nhất: Tam Kỳ Phổ Độ là ba đợt Trời dạy Đạo cho nhân sinh, và như vậy bao hàm luôn ý thứ hai.
-
Đức Ngọc Lịch Nguyệt thế danh là Lê Văn Lịch, sinh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (14-10-1890) tại xã Long An, huyện Cần Giuộc, Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An). Trước khi trở thành môn đệ Cao Đài, Ngài tu theo Minh Đường đến phẩm Dẫn Ân (Nhị thừa), đạo hiệu là Lê Xương Tịnh. Ngày 26-4-1926, Đức Chí Tôn ban Thiên ân phong cho Ngài Lê Văn Lịch làm Đầu Sư phái Ngọc, thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt (lúc đó Ngài được 37 tuổi và là vị Tiền Khai Đại Đạo có tuổi đời trẻ nhứt thời bấy giờ và đây có thể xem như là một sự kiện đặc biệt của Ngài).
Nhạc và lời: Trần Bửu Long
Con có người bạn biết bay là tiếng chuông tiếng chuông tiếng chuông ở trong thánh đường. Khi con đọc kinh tiếng chuông chìa đôi cánh chở con thăm thiên đường. Gió lồng lộng bên tai ngắm Phật ngắm Tiên không muốn quay trở về.
Nhạc và lời: TRẦN BỬU LONG
Vui hát trong câu ca là la la la. Đôi bướm vui tung tăng lượn trong muôn hoa. Đường về Đài Cao đường chung của muôn nhà. Mình cùng vang ca quên mất đường xa.
Nâng bước chân em đi đường xa xa ơi. Vang tiếng vang em ca về trao muôn nơi. Ngày này học Đạo Cao ngày sau sẽ giúp đời. Chờ bình minh lên tung cánh ngàn khơi.
Nhạc và lời: Thiện Quang
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Là Việt nam, ta chung dòng máu; Nam Bắc Trung, chỉ một Đài Cao.
Đem đạo ra chúng sinh, Một non sông một nghĩa tình,
Cao Đài vẫn chung gia đình, Về đây với màu áo trắng;
Chung cùng một ước mơ, Một tâm tư một bóng cờ,
Cao Đài quyết tâm phụng thờ, Kỳ ba nhân thế mong chờ.
Hò lơ hó lơ hó lơ.
Sáng muôn phương! Ánh đạo quê hương!
Chợt nhớ bao người trải nắng dầm sương
dâng hiến cuộc đời để cờ cứu độ tung bay,
đất nước ngàn năm vọng vang tiếng kinh Cao Đài.
Đạo gốc bởi nơi tấm lòng tín thành hiệp hòa,
Dẫu nắng dẫu mưa đức tin càng thêm thiết tha,
Khí phách Tiền giang như Thái sơn một thời khai phá,
Áo trắng Hậu giang như mây trời vạn thuở không nhòa.
Rực sáng khắp trời Đông, Ánh Đạo từ đất Lạc Long,
Trăm năm khéo bận lòng, Thế gian là sắc là không;
Tâm chí đại đồng cũng là tấm tình non sông,
Cứu thế kỳ ba hạ nguơn xứng danh Tiên Rồng.
Ôi non linh nước thiêng, Chừ ai con Rồng cháu Tiên,
Kỳ ba chấn hưng chân truyền, Cho hiển vinh ngàn năm văn hiến;
Đây Trung Châu núi sông, Trường Sơn bên bờ biển Đông,
Trời Nam đắp xây đại đồng, Để năm châu cùng hưởng ân hồng.
Khoan hỡi khoan khoan hò.
Có ai về, ai về miền Trung nước tôi,
Để nghe câu kinh tứ thời núi sông bồi hồi.
Cờ Đạo in bóng trong lòng đất,
cờ Đạo in bóng trong hồn nước,
Để xây thánh đường, ngôi thánh đường nội tâm thế nhân.
Đem thương yêu đắp xây nhân hòa,
đem trung kiên đắp xây bửu tòa,
Cho Đông Tây Bắc Nam chung tình,
Cho năm châu, bốn phương thái bình,
Ôi Việt nam gấm hoa, Này Nam quan này Bắc hà,
Dốc lòng phát huy đạo nhà, Kỳ ba dưới đại ân xá;
Khai nguồn mạch Thánh Tâm, Kìa Giao Châu Đạo khởi mầm, Kiếp người nổi trôi thăng trầm, Trời đêm thắp ánh trăng rằm.
Tuyết sương đã phủ đầu non, sương tuyết đầu non (ối a đầu non); Hiên tây gió lạnh từng cơn, bóng trăng đã tròn (ối a trăng tròn);
Thế trần giữa thời Hạ nguơn, muôn lối ngược xuôi biết đâu dại khôn? Ngọc Kinh ai nhớ lối về, lối về cung son (ối a cung son).
Bước chân sứ mạng đường xa, chân bước đường xa (ối a đường xa); Thương nhau, gắng lòng cùng nhau đắp xây nhân hòa (ối a nhân hoà);
Bóng cờ cứu độ kỳ ba đưa bước vạn linh đến bên Trời Cha; Dụng cơ thánh đức thái hòa, trẩy hội Long Hoa (ối a Long Hoa).
Chung nhau muôn cánh tay, Đài Cao ta cùng đắp xây,
Việt Nam sáng danh đạo Thầy, Giương khắp nơi ngọn cờ nhân ái;
Bao la trên ngũ châu, Dù Đông Tây dù Á Âu,
Tình thương trải ra hoàn cầu, Để nhân tâm rực ánh đạo mầu.
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Đường kỳ ba quy nguyên tam giáo,
hiệp ngũ chi chung một Đài Cao.
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Cả quê hương chung màu áo, cả nhân loại cùng Đài Cao;
Cả quê hương chung màu áo, cả nhân loại cùng Đài Cao; nhân loại cùng Đài Cao.
Nhạc và lời: Võ Thành Văn (1985)
Tuổi xuân ơi, nhiệt huyết đang dâng trào,
vì ngày mai, hãy đứng bên nhau,
Dù nơi đâu, tuổi xuân khắp năm châu,
xin bắt chung nhịp cầu, hàn gắn tình nhân loại.
Đến với nhau, vượt trùng khơi ngăn cách.
Xóa tan biên cương, vượt qua muôn oán thù.
Kết liên lòng người, này tình thương Chí Tôn,
Mang đi muôn phương, sưởi ấm muôn tâm hồn.
Bạn tôi ơi, ta là nhân loại!
Vàng, đen, trắng, vẫn anh em cùng Cha.
Nào, chung tay xây dựng nhân hòa!
Cùng thế giới, là cùng mái nhà.
Bạn năm châu, đâu còn xa lạ.
Ngàn ngôn ngữ, hãy ca chung bài ca.
Tuổi xuân ơi, gió lộng chân trời
Bắt tay nhau đi, tình bạn đón mời.
Trên đường dài con đi, muôn ngàn hoa nở rộ.
Trên đường dài con đi, Thiên thần du dương hát.
Mẹ ơi Mẹ, Mẹ dẫn bước con đi.
Mẹ ơi Mẹ, Mẹ tiếp sức con đi.
Cây trên rừng, có bao nhiêu lá, Mẹ thương con kể đã nhiều hơn. Nước trên nguồn, chảy bao nhiêu giọt, hồng ân Mẹ nhiều hơn.
Con xin cúi đầu trước tình thương bao la của Đức Mẹ kính yêu. Con xin làm giọt tình thương trong mắt Mẹ - đại dương.
Ca sĩ:Trọng Nghĩa
Hò ơi... Gặp mối chơn truyền, đời có mấy người đâu.
Sương trắng mái đầu, thời gian như bóng câu.
Tháng năm chẳng chờ, những ai hững hờ.
Long Hoa vẫn mở khoa kỳ nơi thế gian.
....
Đã mang nợ non sông, há đi về tay không?
Chút cơ nghiệp Tiên Rồng, đạo Trời in bóng... hò ơi, Điểm tô tòa Cao Đài, để dân Việt nhớ hoài, sứ mạng độ nhân loài.
Màu vàng, màu xanh, màu đỏ - ngọn cờ Đại Đạo Cao Đài.
Giữa bầu trời cao lộng gió, lá cờ tung bay, tung bay.
Màu vàng là màu Phật giáo.
Màu xanh là màu đạo Tiên,
Màu đỏ là màu Nho giáo,
Cả ba màu Tam giáo quy nguyên.
"Non linh đất thánh trời xuân,
Đường trần bao dấu chơn quân lạc loài;
Lộc Trời đã giữ trong tay,
Đạo Trời vun quén ngày ngày cho xinh."
Đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Minh Đức Tu Viện, Tuất thời, 25-01 Giáp Dần (16-2-1974)
