Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Lão Tử tức Thái Thượng Lão Quân , họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương, hiệu Lão Đam, là một vị tư tưởng gia nổi tiếng vào những năm cuối thời đại Xuân Thu. Trong Đạo Giáo, được tôn là vị Tổ sáng lập nên tín đồ xưng Ngài là “Đạo Đức Thiên Tôn”, “Thái Thượng Lão Lý Quân”, “Thái Thượng Đạo Tổ”, “Vô Cực Lão Tổ”, “Tam Thanh Đạo Tổ”, “Lão Quân Gia”, “Vô Cực Chí Tôn”, “Vô Cực Thánh Tổ. Ngài sanh ngày mười lăm tháng hai năm Canh Thìn , tức năm thứ mười đời vua U Vương nhà Châu (Chu), người ở lý (xóm ấp) Khúc Nhân, làng Lại, huyện Khổ , thuộc nước Sở. (hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam-NT)
-
Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy tại Thánh Thất Bình Hòa vào ngày Rằm tháng 8 Đinh Mùi (18/9/1967)
-
Đức Ngọc Lịch Nguyệt thế danh là Lê Văn Lịch, sinh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (14-10-1890) tại xã Long An, huyện Cần Giuộc, Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An). Trước khi trở thành môn đệ Cao Đài, Ngài tu theo Minh Đường đến phẩm Dẫn Ân (Nhị thừa), đạo hiệu là Lê Xương Tịnh. Ngày 26-4-1926, Đức Chí Tôn ban Thiên ân phong cho Ngài Lê Văn Lịch làm Đầu Sư phái Ngọc, thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt (lúc đó Ngài được 37 tuổi và là vị Tiền Khai Đại Đạo có tuổi đời trẻ nhứt thời bấy giờ và đây có thể xem như là một sự kiện đặc biệt của Ngài).
-
Cất lên tiếng khóc chào đời,
Mới hay hạt bụi thành người nhân gian.
Biết xuân sinh, biết đông tàn,
Làm người chỉ để cưu mang khóc cười . .
-
Ngày mùng 1 tháng 3 Đinh Hợi (thứ ba 17/04/2007) được sự phân công của Ngoại Giao Vụ, phái đoàn chúng tôi gồm ba nhân viên: Chí Thật, Minh Đức và Đinh Thị Hạnh, đi dự lễ tại thánh thất Nguyệt Cảnh.
Xuất phát từ Cơ Quan lúc 20g25 phút ngày 29 tháng 3 Đinh Hợi, hai con ngựa sắt chở chúng tôi ra phòng vé công ty xe khách Mai Linh số 500 Lê Hồng Phong. Làm thủ tục mua vé xong, có xe trung chuyển đưa chúng tôi ra bến xe xa cảng miền tây lúc đó 21g35 phút, cũng là thời điểm chúng tôi khởi hành đi Cà Mau.
-
Trước Tết nguyên đán, mỗi độ đón chào Xuân mới chúng ta thường nhắc đến phong cách thưởng Xuân Cao Đài.
Đó là phong cách bình dị thâm trầm của người học đạo, lấy Tâm Xuân dịu hòa cởi mở để đối đải với khí vận đổi mới hân hoan của người, của cảnh; thay vì đua chen hội hè đình đám.
Nay đã vào Xuân, người đời, người đạo đều muốn mở đầu một năm hưng thịnh thành công; nhưng phong cách, phương châm cũng khác.
Đời thì thiên về kinh tế thực dụng.
Đạo thì hướng đến công đức độ dân.
Thế nên, là những người đang dấn bước tu học hay nặng mang sứ mạng đạo nhà, chúng ta hãy cùng nương theo Khí Xuân lập chí tiến đức tu nghiệp.
-
Những năm cuối của thế kỷ XX có nhiều nhà nghiên cứu đã tiên đoán rằng thế kỷ XXI sẽ mở sang một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của tâm linh. Nếu đúng như thế, thật rất mừng, vì chúng ta là những người có đức tin, đang cố gắng rèn luyện tâm linh để được tiến hóa. Nhưng để được tự tin và đức tin được vững vàng, chúng ta tự hỏi đó có phải là những suy diễn hay những ảo tưởng vô căn cứ của một số nhà nghiên cứu không?
Thật ra, nếu xét kỹ lịch sử nhân loại cũng như lịch sử văn hóa, văn minh hay những chu kỳ tiến hóa của nhân loại thì luận cứ trên cũng không có gì mới lạ. Bởi vì "Vật cùng tất biến" và "Âm cực dương sinh". Hai câu nói ngắn ngủi ấy tuy đơn giản nhưng là những nguyên lý, những quy luật chi phối toàn thể vạn vật, vạn sự trong vũ trụ. Vũ trụ dịch biến, tinh thần và vật chất tất cả đều nằm trong quy luật ấy, lặp đi lặp lại theo thời gian bằng những chu kỳ không ngừng nghỉ, nghĩa là cùng rồi biến, biến rồi thông, tạo thành lịch sử, mà lịch sử là gì? _ Lịch sử là cuộc biến thiên, là hành trình tiến hóa của vạn vật chúng sanh.
-
1. Đạo Cao Đài do ai sáng lập ?
Đạo Cao Đài do Đức Cao Đài Thượng Đế tức Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế mà Thiên Chúa giáo gọi là Đức Chúa Trời,11 Do Thái giáo gọi là Đức Jéhovah ; Hồi giáo gọi là Đức Alah sáng lập tại nước Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua các sự kiện chính yếu sau đây :
- Vào đầu năm 1921, qua phương tiện thông linh bằng cơ bút (giáng cơ), Đức Thượng Đế lần đầu tiên xưng danh là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và chánh thức thâu nhận Ngài Ngô Văn Chiêu làm đệ tử đầu tiên.
- Sau khi các vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vâng lịnh làm lễ vọng thiên cầu đạo vào ngày mùng 1 - 11 - Ất Sửu (16-12-1925); ngày 19-12-1925 Đức Thượng Đế giáng cơ mừng cho các Ông :
"Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài"
Đêm Lễ Giáng Sinh 24-12-1925, Ngài giáng cơ dạy như sau:
"Ngọc Hoàng Thượng Đế Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương,
"Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên;
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên."
(TNHT, QI,1973, tr.5)
Vậy Đạo Cao Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Đức Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát sáng lập.
-
Lịch sử của tư tưởng nhân loại là một hành trình tìm kiếm lời giải đáp cho những câu hỏi muôn đời về sự hiện hữu của con người:
Ta là gì? Ta là ai?
Ta từ đâu đến thế giới này?
Ta đến thế giới này để làm gì?
Ta sẽ đi về đâu, sau khi từ giã thế giới này?
-
清 靜經
Thanh Tĩnh Kinh
● Lê Anh Minh dịch & chú thích
Kinh này có tên gọi đầy đủ là «Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh» 太上老君說常清靜經, còn có tên là «Thái Thượng Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh» 太上混元上德皇帝說常清靜經, «Thường Thanh Tĩnh Kinh» 常清靜經, hay «Thanh Tĩnh Kinh» 清靜經. Nội dung của kinh là giải thích sự diệu dụng của thanh tĩnh. Để đạt sự thanh tĩnh thì người tu phải «tam quán»: nội quán (nhìn vào trong), ngoại quán (nhìn ra ngoài), và viễn quán (nhìn ra xa). Tam quán để thấy vạn vật đều là không; tức là «trừng tâm» (làm trong sạch tâm) để diệt trừ vọng tâm, diệt trừ phiền não.
Tác giả của bản kinh này chưa rõ là ai. Có thuyết cho rằng đó là Cát Huyền 葛玄 (164-244); có thuyết cho rằng tác giả là một đạo sĩ ẩn danh, sống vào đời Đường (618-907) hoặc Ngũ Đại (907-1279). Bản kinh này (có lời chú của Thuỷ Tinh Tử 水精子) đã được đưa vào «Chính Thống Đạo Tạng» 正統道藏. Đây là bản kinh được giới Đạo sĩ rất xem trọng. Giáo phái Thanh Tĩnh Phái 清靜派 của Toàn Chân Đạo 全真道 quy định đây là bản kinh nhật tụng của đạo sĩ bản môn, nên bản kinh được lưu hành rất rộng và có nhiều bản chú thích của các nhà như: Đỗ Quang Đình 杜光庭, Thuỷ Tinh Tử 水精子, Hỗn Nhiên Tử 混然子, Hầu Thiện Uyên 侯善淵, Lý Đạo Thuần 李道純.●
-
LIỄU giải (1) cho đời nhẹ tội khiên(2
TÂM người Bồ Tát(3) rộng vô biên
CHƠN như bất động,(4) chơn như chủ(5)
NHƠN dục(6) bao giờ có thắng Thiên(7).
-
" Đành rằng Khai Đạo cứu đời,
Đạo cho nên Đạo thì đời mới yên".
( Đức Vô Cực Từ Tôn, rằm tháng 8 Ất Tỵ,10/5/1965)
Nhạc và lời: Trần Bửu Long
Con có người bạn biết bay là tiếng chuông tiếng chuông tiếng chuông ở trong thánh đường. Khi con đọc kinh tiếng chuông chìa đôi cánh chở con thăm thiên đường. Gió lồng lộng bên tai ngắm Phật ngắm Tiên không muốn quay trở về.
Nhạc và lời: TRẦN BỬU LONG
Vui hát trong câu ca là la la la. Đôi bướm vui tung tăng lượn trong muôn hoa. Đường về Đài Cao đường chung của muôn nhà. Mình cùng vang ca quên mất đường xa.
Nâng bước chân em đi đường xa xa ơi. Vang tiếng vang em ca về trao muôn nơi. Ngày này học Đạo Cao ngày sau sẽ giúp đời. Chờ bình minh lên tung cánh ngàn khơi.
Nhạc và lời: Thiện Quang
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Là Việt nam, ta chung dòng máu; Nam Bắc Trung, chỉ một Đài Cao.
Đem đạo ra chúng sinh, Một non sông một nghĩa tình,
Cao Đài vẫn chung gia đình, Về đây với màu áo trắng;
Chung cùng một ước mơ, Một tâm tư một bóng cờ,
Cao Đài quyết tâm phụng thờ, Kỳ ba nhân thế mong chờ.
Hò lơ hó lơ hó lơ.
Sáng muôn phương! Ánh đạo quê hương!
Chợt nhớ bao người trải nắng dầm sương
dâng hiến cuộc đời để cờ cứu độ tung bay,
đất nước ngàn năm vọng vang tiếng kinh Cao Đài.
Đạo gốc bởi nơi tấm lòng tín thành hiệp hòa,
Dẫu nắng dẫu mưa đức tin càng thêm thiết tha,
Khí phách Tiền giang như Thái sơn một thời khai phá,
Áo trắng Hậu giang như mây trời vạn thuở không nhòa.
Rực sáng khắp trời Đông, Ánh Đạo từ đất Lạc Long,
Trăm năm khéo bận lòng, Thế gian là sắc là không;
Tâm chí đại đồng cũng là tấm tình non sông,
Cứu thế kỳ ba hạ nguơn xứng danh Tiên Rồng.
Ôi non linh nước thiêng, Chừ ai con Rồng cháu Tiên,
Kỳ ba chấn hưng chân truyền, Cho hiển vinh ngàn năm văn hiến;
Đây Trung Châu núi sông, Trường Sơn bên bờ biển Đông,
Trời Nam đắp xây đại đồng, Để năm châu cùng hưởng ân hồng.
Khoan hỡi khoan khoan hò.
Có ai về, ai về miền Trung nước tôi,
Để nghe câu kinh tứ thời núi sông bồi hồi.
Cờ Đạo in bóng trong lòng đất,
cờ Đạo in bóng trong hồn nước,
Để xây thánh đường, ngôi thánh đường nội tâm thế nhân.
Đem thương yêu đắp xây nhân hòa,
đem trung kiên đắp xây bửu tòa,
Cho Đông Tây Bắc Nam chung tình,
Cho năm châu, bốn phương thái bình,
Ôi Việt nam gấm hoa, Này Nam quan này Bắc hà,
Dốc lòng phát huy đạo nhà, Kỳ ba dưới đại ân xá;
Khai nguồn mạch Thánh Tâm, Kìa Giao Châu Đạo khởi mầm, Kiếp người nổi trôi thăng trầm, Trời đêm thắp ánh trăng rằm.
Tuyết sương đã phủ đầu non, sương tuyết đầu non (ối a đầu non); Hiên tây gió lạnh từng cơn, bóng trăng đã tròn (ối a trăng tròn);
Thế trần giữa thời Hạ nguơn, muôn lối ngược xuôi biết đâu dại khôn? Ngọc Kinh ai nhớ lối về, lối về cung son (ối a cung son).
Bước chân sứ mạng đường xa, chân bước đường xa (ối a đường xa); Thương nhau, gắng lòng cùng nhau đắp xây nhân hòa (ối a nhân hoà);
Bóng cờ cứu độ kỳ ba đưa bước vạn linh đến bên Trời Cha; Dụng cơ thánh đức thái hòa, trẩy hội Long Hoa (ối a Long Hoa).
Chung nhau muôn cánh tay, Đài Cao ta cùng đắp xây,
Việt Nam sáng danh đạo Thầy, Giương khắp nơi ngọn cờ nhân ái;
Bao la trên ngũ châu, Dù Đông Tây dù Á Âu,
Tình thương trải ra hoàn cầu, Để nhân tâm rực ánh đạo mầu.
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Đường kỳ ba quy nguyên tam giáo,
hiệp ngũ chi chung một Đài Cao.
Dưới bóng cờ Đại Đạo, một bóng cờ Đại Đạo,
Cả quê hương chung màu áo, cả nhân loại cùng Đài Cao;
Cả quê hương chung màu áo, cả nhân loại cùng Đài Cao; nhân loại cùng Đài Cao.
Nhạc và lời: Võ Thành Văn (1985)
Tuổi xuân ơi, nhiệt huyết đang dâng trào,
vì ngày mai, hãy đứng bên nhau,
Dù nơi đâu, tuổi xuân khắp năm châu,
xin bắt chung nhịp cầu, hàn gắn tình nhân loại.
Đến với nhau, vượt trùng khơi ngăn cách.
Xóa tan biên cương, vượt qua muôn oán thù.
Kết liên lòng người, này tình thương Chí Tôn,
Mang đi muôn phương, sưởi ấm muôn tâm hồn.
Bạn tôi ơi, ta là nhân loại!
Vàng, đen, trắng, vẫn anh em cùng Cha.
Nào, chung tay xây dựng nhân hòa!
Cùng thế giới, là cùng mái nhà.
Bạn năm châu, đâu còn xa lạ.
Ngàn ngôn ngữ, hãy ca chung bài ca.
Tuổi xuân ơi, gió lộng chân trời
Bắt tay nhau đi, tình bạn đón mời.
Trên đường dài con đi, muôn ngàn hoa nở rộ.
Trên đường dài con đi, Thiên thần du dương hát.
Mẹ ơi Mẹ, Mẹ dẫn bước con đi.
Mẹ ơi Mẹ, Mẹ tiếp sức con đi.
Cây trên rừng, có bao nhiêu lá, Mẹ thương con kể đã nhiều hơn. Nước trên nguồn, chảy bao nhiêu giọt, hồng ân Mẹ nhiều hơn.
Con xin cúi đầu trước tình thương bao la của Đức Mẹ kính yêu. Con xin làm giọt tình thương trong mắt Mẹ - đại dương.
Ca sĩ:Trọng Nghĩa
Hò ơi... Gặp mối chơn truyền, đời có mấy người đâu.
Sương trắng mái đầu, thời gian như bóng câu.
Tháng năm chẳng chờ, những ai hững hờ.
Long Hoa vẫn mở khoa kỳ nơi thế gian.
....
Đã mang nợ non sông, há đi về tay không?
Chút cơ nghiệp Tiên Rồng, đạo Trời in bóng... hò ơi, Điểm tô tòa Cao Đài, để dân Việt nhớ hoài, sứ mạng độ nhân loài.
Màu vàng, màu xanh, màu đỏ - ngọn cờ Đại Đạo Cao Đài.
Giữa bầu trời cao lộng gió, lá cờ tung bay, tung bay.
Màu vàng là màu Phật giáo.
Màu xanh là màu đạo Tiên,
Màu đỏ là màu Nho giáo,
Cả ba màu Tam giáo quy nguyên.
"Non linh đất thánh trời xuân,
Đường trần bao dấu chơn quân lạc loài;
Lộc Trời đã giữ trong tay,
Đạo Trời vun quén ngày ngày cho xinh."
Đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Minh Đức Tu Viện, Tuất thời, 25-01 Giáp Dần (16-2-1974)
