Thống Kê Newsletter
Lần đầu đến với Nhịp Cầu Giáo Lý?

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.

 
Có thể bạn chưa xem qua
  • Tất cả vũ trụ vạn hữu là một trường dịch hóa miên miên bất tuyệt, sinh động vô cùng. Nên Dịch, Hệ Từ, có câu: "Sinh sinh chi vị dịch". Nếu nói sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh thì con người có thấy nghĩa lý gì, thú vị gì mà còn có gì hữu ích chăng ?


  • Lòng Từ Phụ / Hồng Phúc

    Đấng Tạo Hóa Toàn Tri Toàn Năng quyền uy tối thượng mà con người nghĩ rằng sẵn sàng ban phước hay giáng họa đã thực sự hiện hữu trong Kỳ ba phổ độ trong vai trò của một đấng Từ Phụ hết lòng thương yêu, chở che, đùm bọc con cái như một người cha ở cõi hữu hình.


  • Bài tâm tướng / Sưu tầm

    (Của TRẦN HI DI TIÊN SANH) do Ngài cố Minh Thiện trích dịch năm 1960

    1. Trần Lão tổ đặt bài tâm tướng,
    Cho biết người, rồi lượng xét mình.
    Tâm là gốc của tướng hình,
    Xét tâm tự hiểu dữ lành chẳng sai.


  • Chữ Tâm / Đức Quan Thế Âm Bồ Tát (Quách Hiệp Long Dịch Pháp Văn)

    CHỮ TÂM
    Huờn-Cung-Đàn, Tý thời, 14 rạng Rằm tháng 5 Ất-Tỵ (13-6-1965)

    Thiện-Tài Đồng-Tử, Tiểu-Thánh chào chư Thiên mạng, chào chư liệt vị lưỡng ban. Chư liệt vị thành tâm tiếp điển Đức QUAN-ÂM BỒ-TÁT. Tiểu-Thánh xuất ngoại ứng hầu, thăng...

    (Tiếp điển:)
    Bần-Đạo chào chư hiền sĩ, chư hiền muội đẳng đẳng.
    Thi
    QUAN trường như áo mặc rồi thay,
    ÂM chất người ôi! kíp tạo gầy,
    BỒ liễu, nam nhân tua gắng chí,
    TÁT nhơn tát phúc chốn trần ai.


  • Thế Nhân Hòa / Đức Lê Đại Tiên

    Người tôn giáo sống trong khung cảnh bao quát cởi mở và yêu thương đại đồng, luôn luôn có những cái nhìn đầy sự hòa nhã khiêm tốn vui tươi với đồng loại. Từ những nhận thức nầy, chư hiền cũng nên biết một cách khái quát về nhân hòa.


    Từ ngày xưa, cũng đã có người muốn thực hiện đường lối bình thiên hạ với ba điều chánh yếu: Thiên thời , Địa lợi và Nhân hòa. Nhưng nhân hòa mới là đối tượng, còn hai điểm kia chỉ là hỗ trợ một cách khách quan mà thôi.


  • ĐỒNG NGUYÊN VẠN GIÁO / Đức Vạn Hạnh Thiền Sư

    VẠN HẠNH THIỀN SƯ, Bần Tăng chào mừng chư hiền đệ hiền muội lưỡng ban đàn nội.

    THI

    Chuỗi dài ý hệ cõi Nam Giao,
    Thích, Đạo, Nho tông những sắc màu,
    Đã có trường thi Tam Giáo trước,
    Nhịp đầu để nối nhịp theo sau.


  • CAO DAI AT A GLANCE / BAN BIÊN TẬP

    . Who founded Caodaism?
    CaoDaism was founded in Vietnam at the beginning of the 20th century by Cao Dai, the Supreme God or the Jade Emperor1 through the chronological events as follows:
    – At the beginning of 1921, by means of the spiritism, the Supreme God revealed Himself through the mystical name “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”, nd officially accepted Ngô Văn Chiêu as the first disciple.
    – On December 16th, 1925 (i.e., the first day of the eleventh month of the lunar year Ất Sửu), Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, and Cao Hoài Sang set up an altar to worship the Supreme God. Then, on December 19th, 1925, He congratulated them, “How lucky you are when following Caodaism.” [should check with the Vietnamese text].
    At Christmas Eve of 1925, The Supreme Being revealed Himself :
    “I am the Jade Emperor - Supreme God - Caodai Immortal - Great Bodhisattva - Mahatattva, teaching the Way in the Southern Quarter”.
    “I am the eternal authority.
    You get My favor by practicing the Way.
    When the miraculous Way iss pread throughout the world.
    Your names will become everlasting. .”
    (Collection of Divine Messages, vol.1, 1973, p.5)
    Thus, Caodaism was founded by the Jade Emperor - Supreme God or Cao Dai Immortal - Great Bodhisattva - Mahatattva.


  • Duy tuệ thị nghiệp / Huỳnh Ngọc Chiến

    Tư tưởng Đức Phật như một buổi đại yến tiệc, mà nói như nhà thơ Bùi Giáng, chỉ cần một hạt cơm thừa trên bàn tiệc đó cũng quá đủ để chúng ta thụ dụng suốt bình sinh. Điều đó ta càng dễ dàng cảm nhận khi đi sâu vào thế giới kinh điển Phật giáo.
    Không cần đến cảnh giới hoành tráng được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm hay tư tưởng siêu việt được diễn đạt trong kinh Đại Bát Nhã, vốn là những thứ có thể làm cho những kẻ sơ cơ như chúng ta khiếp hãi, mà ngay những câu kệ đơn giản mộc mạc trong kinh Pháp Cú hay kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác cũng khiến chúng ta cảm nhận được chiều sâu thăm thẳm, khi chúng ta đọc những trang kinh đó bằng những suy niệm chân thành.
    Trong phần cuối của bài kệ thứ ba trong kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật dạy rằng, bậc Bồ tát cần phải: "Thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy Tuệ thị nghiệp”. (Thường nghĩ đến việc biết đủ, yên trong cảnh nghèo mà giữ đạo, chỉ lấy việc đạt đến tuệ giác làm sự nghiệp đích thực của mình). Kinh Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác rất ngắn, chỉ gồm tám bài kệ ngắn nói về tám điều giác ngộ lớn, song chỉ cần một phần của bài kệ thứ ba này cũng đủ làm kim chỉ nam cho những ai thành tâm tu học, muốn đi vào thế giới của Phật đà.


  • Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
    “(. . .) Luận về trong lãnh vực tu học, nơi đây nói riêng, toàn đạo nói chung, đã có lắm người đọc qua nhiều kinh điển, hiểu nhiều nguyên tắc hành đạo, nói lời đạo lý rất là thông suốt, nhưng tự mình hiểu mình gẫm lại chưa có mấy ai! Chư đạo hữu suy nghĩ một phút đi rồi sẽ thấy lời Bần Tăng nói đó là thế nào?
    Tự hỏi mình là ai? Mình nơi đây không phải là tên X,Y,Z, cũng không phải là chú Ba, bác Năm, dượng Bảy, cậu Chín mà các cháu xưng hô hằng ngày.
    Vậy chớ mình là ai? Trong một ngày qua, có lúc mình là phật, có lúc mình là tiên, có lúc mình là thánh, thần, cũng có lúc mình quá phàm phu tục tử, và cũng có lúc mình là ngạ quỉ súc sanh. Như vậy, hỏi lại mình là ai? Cũng đồng thời một nhục thể này, nhưng nhục thể ấy cũng không phải là mình. Chính những nguồn tư tưởng phát xuất từ nội tâm ấy đã đánh giá con người mình là phật, tiên, thánh, thần, phàm phu hoặc ngạ quỷ súc sanh…” (1)


  • THOI MAT PHAP / Tue Tam

    Thời kỳ mạt pháp là thời kỳ được bắt đầu từ sau khi đức Phật nhập niết bàn 1500 năm, được khái lược trong ba điều trọng yếu: Có giáo lý, không hành trì, không quả chứng.

    Chư Tổ sư giảng về điều này như sau: Thời mạt pháp chẳng phải là không có người hành trì. Song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có, nên mới gọi là không hành trì. Mà bởi hành trì không đúng nên không có người chứng đạo. Bởi thế nên chư Tổ thường than: “Người học đạo nhiều như lông Trâu, người đắc đạo như sừng Thỏ.”


  • Giải pháp ưu việt nhất để cứu độ con người là con người làm thế nào phát huy tối đa tinh hoa bản thể chính mình.


  • Đề tài: Những chữ Tâm

    Huờn Cung Đàn,Tý thời 14 rạng Rằm tháng 5 Ất Tỵ (14-6-1965)














    Thầy dành cho trẻ một mùa xuân,
    Đi lại trần gian xóa khổ trần,
    Như lý Đạo mầu đang cứu cánh,
    Cho đời thuần túy nét thanh tân.

    Đức Chí Tôn, Ngọc Minh Đài, 29-12 Bính Ngọ, 08-02-1967

    Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng tiếp nhận các ý kiến đóng góp của bạn để phát triển Nhịp Cầu Giáo Lý ngày một tốt hơn.


    Hãy gửi góp ý của bạn tại đây