Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
-
Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ( Ki-Tô giáo) Lạy rất Thánh đồng trinh Maria. Mẹ đã vui lòng nhận ...
-
Xin trích một đoạn Luật Hiệp Thiên Đài trong Ngọc Đế Chơn Truyền-1935: “Nói tóm tắt là, cơ bút để cầu ...
-
Luật tôn giáo nhằm nâng cao con người lên khỏi thân phận phàm phu tục tử, để trở nên thần ...
-
Thân gởi tất cả anh chị em toàn Cơ Quan, Cơ Quan vừa trải qua một thử thách hết sức nặng ...
-
Samedi 18 Septembre 1926 13 tháng 8 năm Bính Dần Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết Cao-Ðài Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Ðạo Nam Phương Các con, ...
-
Thương thay cho nhơn loại trong thời kỳ mạt kiếp này, cộng nghiệp đến giờ nên dịch bệnh lan tràn ...
-
Từ thuở hoang sơ của địa cầu, loài người đã trải qua nhiều nỗi hãi hùng do biến động của ...
-
Đức Trần Hưng Đạo dạy tại Thiên Lý Đàn, Tuất thời mùng 10 tháng 04 Ất Tỵ (10.5.1965)
-
Vậy, để hội nhập thế giới trong kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ, người Cao Đài phải nhận định, nắm ...
-
Tóm lược. Dựa trên những nét đẹp đạo đức trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, kết hợp ...
-
"I have a dream that one day on the red hills of Georgia the sons of former slaves and the ...
-
Sám hối /
Đức Chí Tôn dạy rằng: \"Mỗi khi đứa nào lầm lỡ một việc gì, rán mà sám hối ăn năn, ...
Cố Định Pháp Minh Thiện
Bài viết được cập nhật lần cuối vào ngày 25/06/2011
NÓI VỀ CÁI TÂM
RẰM THÁNG 7 NĂM MẬU TUẤT (29-8-1958)
(Do môn sanh Minh Lý Đạo sưu tầm)
Thưa chư quí Ông, chư quí bà,
Thưa các đạo hữu Nam nữ,
Hôm nay là Ngày vía Trung-nguơn, các chùa đâu đâu cũng đều thiết lễ long trọng, cốt để cho bổn đạo và Bá tánh thập phương đến chiêm bái Phật Trời, sau là nghe kinh nghe giảng.
Tại chùa Tam-Tông Miếu, chúng tôi thờ Thượng Đế và ba vị Giáo chủ, là : Tây-Phương Phật-Tổ, Thái-Thượng Lão-Quân, và Văn-Tuyên Khổng-Thánh.
Tam giáo đều dạy tu tâm, mà tâm có nhiều nghĩa, nên cần phải phân biệt ra cho rành rẽ, các bực Tiền-bối đã giải thích nhiều rồi nhưng kỳ thiệt ít ai hiểu cho thấu đáo.
Xét vì tâm là một vấn đề căn bổn trong phép tu hành, nay tôi cũng xin góp ý kiến để giúp cho các bạn tu hành một phần nào.
A.- ĐỊNH NGHĨA CHỮ TÂM
I.- Nghĩa Sanh-Lý
Đây nói về cái tâm thịt. Ấy là một cơ quan vận huyết trong thân thể con người : Tâm nầy là một tạng trong ngũ tạng của thân thể, nên cũng gọi là tạng tâm.
Tạng tâm ở trong lồng ngực, mà trịch qua tay trái một chút. Hình nó như cái bông sen búp, chưa nở. Ta hãy đặt bàn tay ta lên ngực, phía tay trái thì nghe nó đập mạnh, để vận huyết đi khắp cả châu thân.
Theo môn sanh-lý học dạy, nhờ tạng tâm mà khi phát ra đi, huyết màu đỏ đem chất bổ nuôi nấng cho cả đầu mình chơn tay. Khi trở về, huyết rút chất trược các nơi nên thành ra máu xanh, phải nhờ có dưỡng khí của phổi rút trong không khí của Trời để khử trược. Rồi huyết trở lại đỏ tốt chạy về tạng tâm, để bắt đầu châu lưu nữa, tuần huờn như thế mãi mãi.
Các tạng phủ khác bịnh hoạn, thì sự sống còn có thể kéo dài một ít lâu. Chớ tạng tâm mà bịnh và không vận huyết được, thì sự chết trong nháy mắt. Đũ thấy tạng tâm nơi đây tuy thuộc về vật chất, mà phận sự của nó cũng quan hệ lắm.
II.- Nghĩa Triết-Lý
Theo Triết lý phương đông, thì cái tâm, ngoài phận sự vật chất nói trên, lại còn phát sinh ra tư tưởng. Các sự hiểu biết, khôn ngoan đều do nơi tạng tâm mà có. Các nhà Triết-học phương tây lại nói : sự suy nghĩ, khôn ngoan do cái não; còn tình tự gốc ở tâm.
Thành thử cái não chủ về trí, cái tâm chủ về tình. Tình mà phát ra lộn xộn, có khi trái lẽ, là vì thiếu suy nghĩ.
Có phái lại cãi rằng : Cái chi cũng do tâm, còn óc chỉ là một cơ quan để giúp cho tâm về sự phân biệt lành dữ, phải chẳng mà thôi.
Nói về tư tưởng, hiểu biết mà thuộc về con đường lành, các nhà Triết học phương tây gọi tâm là lương tâm. Lương tâm có hai nghĩa : có phái chủ trương về sự kinh nghiệm mà hiểu biết, còn phái khác là cho rằng cái tâm tự nhiên khôn thiêng, có việc chẳng cần phải học hỏi hay là kinh nghiệm mà cũng biết được. Thiết tưởng hai nghĩa đều cũng có phần đúng, là tùy theo trường hợp , tùy theo phương diện mà xét. Đây tôi xin miễn bàn rộng thêm nữa.
III.- Nghĩa Nho-Giáo
Mục đích cứu cánh của Nho-giáo là “Tồn tâm dưỡng tánh” nghĩa là : gìn giữ cái tâm, nuôi nấng cái tánh.
Sách Đại-học luận rộng về cái tâm, lấy sự tu thân làm gốc. Cho nên nói : “Tự thiên-tử dĩ chí ư thứ-dân, giai dĩ tu thân vi bổn”. Còn sách Trung-dung nói rõ về cái tánh, lại lấy sự xuất tánh gọi là Đạo. Cho nên trong ba cương lãnh lớn của sách ấy, có nêu câu “Suất tánh chi vị Đạo”[Trong bài tựa sách “Trung-dung chương cú đại toàn”. Hồ thị có nói rằng : “Trong sách Đại-học, chẳng thấy nói đến chữ tánh cho nên trong bài tựa Châu tử nói tánh rõ ràng. Còn trong sách Trung Dung chẳng thấy nói đến chữ tâm, cho nên bài tựa nầy nói về tâm rõ ràng.”]
- Tâm và tánh khác nhau ở chỗ nào ?
Trình tử nói : “Tánh hay là tâm cũng là một lý. Nói về lúc bẩm nơi Trời thì gọi là tánh. Nói về khi tồn tại nơi người thì kêu là tâm”.
Sách Dưỡng-Chơn tập nói : “Người ta chỉ có một cái tâm, ra ngoài là tình, vào trong là tánh, đi xuôi là thức, trở ngược là trí. Đủ thấy tâm là tên chung bao quát tất cả, nào là tình, nào là tánh, nào là thức, nào là trí. Cũng là tâm, mà tùy theo cách vận động, nên gọi tên khác nhau đó thôi.”
Sách Mạnh-tử nói : “Đạo là cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hĩ ”. Nghĩa là : Phép Đạo là kiếm cái tâm chạy dông dài ra ngoài mà đem nó lộn ngược về đó thôi. Trên nói : Cầm giữ cái tâm cũng là đồng một nghĩa đó.
Nhưng xin đừng tưởng tâm là vật có hình tướng, mà đi kiếm nó ở ngoài để đem về cầm giữ. Tuy cách nói như thế, chớ ta phải hiểu rộng ra như vầy. Chỉ vừa hay phóng tâm ra ngoài, thì tưởng rằng : Cái tâm nầy là tâm của ta, nó phải do nơi mạng lịnh của ta. Ta chẳng đặng tin theo nó mà để cho nó tự do đi dông dài ra ngoài. Tuy cái tâm bị che lấp đã lâu (bị trần nhơ bao phủ), nếu ta rán sức cổ võ, thì cũng có thể thức tỉnh nó được.
- Cổ võ, thức tỉnh bằng cách nào ?
- Cổ võ là lập chí mạnh mẽ, thức tỉnh là xét thấu lẽ phải.
- Nhà Nho dùng ba phương pháp là : Tỉnh-sát, khắc-trị, và tồn-dưỡng.
a) Tỉnh-sát : Tỉnh-sát nghĩa là : Xét cái tâm của mình coi mỗi ngày là 12 giờ, nó ở trong mấy giờ, ra ngoài mấy giờ, nó tư tưởng cái nào phải, nó tư tưởng việc gì quấy. Cách tỉnh-sát nầy phải cho công bình, minh-chánh, không nên có chỗ thiên vị cho mình, hay là làm qua loa lấy có.
b) Khắc-trị : Trước nói Tỉnh-sát là tìm biết kẻ giặc. Còn đây nói Khắc-trị là giết chết kẻ giặc, thì phải một đao chặt làm hai đoạn. Ý nói : chặt một đao cho ngon, chẳng khá dung dị lỗi mình.
Những kẻ muốn trừ nhơn dục, các tư tưởng xấu, thì cũng phải làm như thế, mới mong sau nầy đặng thành công. Bằng mà tự trị không nghiêm tỉ như kẻ nông phu dẩy cỏ, mà không đào xới tới gốc rễ của nó, thì có ngày cỏ ấy sẽ mọc trở lại.
c) Tồn-dưỡng : Tồn-dưỡng là hai chữ vốn chẵng lìa nhau. Nếu chẳng tồn, nghĩa là cầm giữ, thì mới dưỡng, nghĩa là nuôi nấng cái chi ?
Sau khi khắc-trị các tư tưởng xấu, ta còn giữ lại những tư tưởng lành mạnh. Chúng ta phải nuôi nấng các tư tưởng đó và mỗi ngày làm cho nó phát triển thêm lên mãi. Thầy Châu-tử gọi công phu nầy là “Hàm dưỡng bổn nguyên”, nghĩa là : hàm súc, tồn dưỡng cái tâm là chánh gốc của mình.
Đời sau cuốn “Minh-Nho học án” giải đích xác công phu của Nho giáo như vầy:
Cái bổn thể của tâm vừa khởi động, vừa không khởi.
Tuy là vọng niệm phát sanh, nhưng lương-tri luôn luôn tồn tại, im lặng. Chỉ tại người không biết tồn (cầm giữ), cho nên tâm có lúc lại phóng tứ ra ngoài.
Tuy tâm phóng tứ ra ngoài làm cho con người phải tối tăm, nhưng lương-tri bên trong chưa từng chẳng sáng suốt. Chỉ tại người không biết sát (xét đoán), cho nên có lúc nó bị sự mê lầm che khuất.
Tuy là tâm có lúc phóng tứ mà bổn thể của nó chưa từng không tồn tại, là nhờ ta biết tồn (cầm giữ) đó thôi. Tuy là tâm có lúc bị che khuất, mà bổn thể của nó chưa từng không sáng suốt, là nhờ ta biết sát (xét đoán) đó thôi.
Vì đó mà Nho giáo nói : “Tánh vô bất thiện”, nghĩa là : cái tánh của ta không có chi chẳng lành, tức là : trong bổn thể không hề có mảy hào hung dữ. Bất kỳ người nào cũng đồng đều sẳn có cái tánh lành ấy cả.
Chỉ vì cái tánh ấy bị vật dục che tối, cho nên cần phải tu học để gở cái màn che ấy mà thôi. Chớ trong bổn thể của lương tri, có gì phải thêm, phải bớt đâu !
Sách Tam-tự dựa theo đây mà khởi đầu như vầy : “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện”, nghĩa là : Ban sơ tánh người vốn lành. Nhiều người vội phê bình, không xét đoán kỷ càng, cho rằng : tánh con người đâu phải ai cũng lành mà nói như thế!
Phải : Tánh người đâu phải lành hết, nếu thiếu tu học. Nhưng đây không phải nói về tình hình hiện tại, mà chỉ nói về khi ban sơ, là lúc dĩ vãng mà thôi. Xin để ý tới chữ : vốn lành, chớ nào phải nói vẫn lành.
Cũng xin đừng hiểu lầm : lúc ban sơ là lúc con người mới sanh ra còn trẻ nít. Chữ Ban sơ nầy nói vể bổn thể, về cái tánh chất của con người từ thuở khai thiên lập địa, lúc bất đầu mới có loài người kia lận mà !
Lúc ban sơ, tánh ta là một điểm linh quang, do Trời ban phú, nghĩa là : gốc từ nơi Trời mà sản xuất, tự nhiên phải trong sạch, sáng suốt. Vì Trời trong sạch, sáng suốt, có lẽ nào cho ta một cái tánh nhơ bợn, đen tối.
Nó có nhơ bợn, đen tối chăng, là từ khi tiếp xúc với cõi thế gian, bị ngoại cảnh ô nhiễm lần lần. Nếu ta không tìm học Đạo lo tu hành, để quay đầu trở về gốc cũ, thì ô nhiễm càng thêm ô nhiễm. Thế thì sao còn gọi được là tánh lành nữa ?
Nho giáo nói : “Tồn tâm dưỡng tánh”, nghĩa là : giữ cái tâm đừng để phóng tứ, dẹp trừ cái ô nhiễm, dưỡng cái tánh vốn lành nói đây, ngõ đem nó trở lại trong sạch, sáng suốt như ban sơ.
Nho giáo, chủ về cải thiện đời sống của gia đình, của xã hội, nên tuy cũng luận tâm, mà nói về phần tư tưởng của con người nhiều hơn.
IV.- Nghĩa Đạo-Giáo
Mục đích cứu cánh của Đạo-giáo là : “Tu tâm luyện tánh”, nghĩa là : Trau sửa cái tâm, trui rèn cái tánh.
Đạo giáo cũng nói về cái tâm, thì phân tích có phần rõ ràng hơn. Chữ tâm nầy chẳng phải chỉ những tư tưởng bị phát sanh, mà chánh nó là ngôi phát sanh ra các tư tưởng ấy, là chủ tể của thân thể, là cái hồn của con người.
Tư tưởng tỉ như cái đồng hồ, cái hồn tỉ như anh thợ làm đồng hồ. Trước phải có anh thợ làm đồng hồ, rồi sau mới có người làm ra cái đồng hồ. Cũng thế, trước phải có cái hồn, rồi sau mới nảy sinh ra tư tưởng. Thế thì cách luận chẳng phải căn cứ trên hiện tượng, mà nó đi sâu lần vào bổn thể, vào thiệt tướng một phần nào.
Nho-giáo chia ra có tư tưởng xấu và tư tưởng tốt, thì Đạo giáo cũng chia ra có tâm động và tâm tịnh : Động là trược, tịnh là thanh.
Bởi tâm động, nên sách Châu Dịch gọi cái tâm ấy là Du-hồn. Du nghĩa là : từ chỗ nầy trấy sang chỗ khác, lưu động hoài không ngừng nghỉ. Ta hãy nghe sách Châu-Dịch giải chữ hồn đây :
Hồn là một vật, hay rời rạc chẳng định, lìa cái nầy bắt cái kia, lìa cái kia bắt cái nọ, luân hồi không cùng, nhiều kiếp mà chẳng hư hoại. Còn phách do phần linh của khí huyết trong thân thể con người mà sanh, nên mất hay còn đều do thân thể. Thân nầy tan rã, thì phách cũng mất theo đó.
Hồn là một hột giống luân hồi đời đời kiếp kiếp : làm người, làm quỉ cũng là tự nó, làm Thánh làm Hiền cũng là tự nó, làm lành làm dữ cũng là tự nó, mang lông đội sừng cũng là tự nó. Thân nầy tuy chưa sanh, chớ nó đã có trước rồi. Còn khí tuy chưa tuyệt, chớ nó đã đi trước rồi.
Đương lúc đứa trẻ mới xé bọc chun đầu ra khỏi lòng mẹ, khóc oa oa lên vài tiếng, thì hồn theo tiếng khóc đó mà nhập vô khiếu của đứa trẻ. Vừa nhập khiếu, hồn đã thọ hậu thiên mộc khí, và hiệp với tiên thiên nguơn tánh, thì cái giả dựa vào cái thiệt mà tồn tại. Cho nên đứa trẻ khi xổ lồng mà không có tiếng khóc, thì nó chẳng thành được con người, khó sống. Vì Du-hồn chưa nhập vào xác thân.
Tuy là có sẵn nguơn-tánh ở đó, chớ một mình nguơn-tánh không thể nào tồn tại được.
Đạo-giáo nói : “Tu tâm luyện tánh”, tức là tu Du-hồn, nghĩa là đừng để nó đi dông, đi dài, vậy mới là có thể luyện nguơn-tánh được.
Kinh Huỳnh-đình nói rằng :
Thuyết ngũ tạng các hữu phương,
Tâm vi quốc chủ ngũ tạng vương.
Ý trung động tịnh khí đắc hành,
Đạo tự trì ngã, thần quang-minh.
Nghĩa là :
Mỗi tạng đều có phương pháp riêng,
Tâm là quốc chủ, vua ngũ tạng.
Trong ý động, tịnh, khí mới chuyển,
Đạo “tự trì ngã”, thần sáng suốt.
Đoạn nầy chỉ chỗ diệu dụng của phép : Cùng tâm.
Cùng tâm nghĩa là : Học hỏi, tìm biết cái tâm cho tột nghĩa, cho ráo lý.
Phải biết : Trong ngũ tạng, mỗi tạng có một công năng khác nhau, không tạng nào giống với tạng nào. Tâm có phận sự lớn lao hơn hết, là vì nó làm đầu cả năm tạng. Tỉ như ông vua cai trị một quốc gia, làm đầu cả thiên hạ vậy.
Tâm làm chủ hết trong thân thể, chẳng cần phải nói. Nhưng trong tâm lại có ý phân ra có động, có tịnh. Ý động thì khí hành, ý tịnh thì khí êm lặng. Cho nên khí hành hay êm lặng, đều do nơi ý động, tịnh mà ra cả.
Đạo là lý ở trong chỗ ý động tịnh đó. Cho nên nói : “Đạo tự trì ngã, thần quang minh”.
Chữ tự nghĩa là ngã (ta). Đây nói tự trì ngã, có phải là ta trì ta không ? Trì có nghĩa là : nắm quyền hành trong tay, hay sai sử điều khiển. Động cũng không phải tâm, tịnh cũng không phải ý. Sự động tịnh ấy tự nơi ta chủ trì, nghĩa là làm chủ.
Ta kềm chế, sai sử, chẳng phải là khi nó phát sanh, mà phải sai sử kềm chế trước lúc nó phát, mới là phải : tâm trì tâm, chớ không phải tặc trì tâm.
Nếu ta giữ vững cái tâm như vậy, thì cái ý động tịnh đều là ta với ta, không có ai lọt vào đó mà phá rối ta được. Làm như thế, Nguơn-thần hay là Chơn-tâm mới từ trong phát hiện, đã rõ mà sáng, chẳng hề mê muội.
Nếu ta tự trì không nổi thì tâm ta chẳng rõ chẳng sáng. Nguơn-thần không phát hiện ra thì Đạo do đâu sanh ? Nguơn-thần là ý ở trong tâm, ở giữa khoảng chẳng động chẳng tịnh, đương lúc hoạt bát, là gốc của Đạo.
Tự trì cái tâm như thế gọi là “Tu tâm”. Rồi tự nhiên trong tâm mới có Nguơn-thần phát hiện, Nguơn-tánh sáng suốt, thì gọi là “Luyện tánh”.
Luận về chi tiết, thì Nho-giáo và Đạo-giáo có chỗ khác nhau. Nhưng luận về căn bổn, thì hai bên vẫn có một mục đích mà thôi. Lời nói tuy có khác, mà công phu tu tập cũng đều chú về tâm tánh cả.
V.- Nghĩa Phật-Giáo
Mục đích cứu cánh của Phật-giáo là : “Minh tâm kiến tánh”, nghĩa là : làm cho sáng cái tâm, thì sẽ thấy rõ cái tánh.
Cho nên Ngài Đạt-Ma tổ sư là vị khai sáng phái Thiền-tông của Phật-giáo ở miền Đông-độ, có nói rằng : “Phái ta không phải dạy dông dài, cứ chỉ ngay cái tâm của con người; hễ ai thấy được tánh ở trong tâm thì thành Phật (Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật).
Nhưng phải biết : Phái Phật chia cái tâm ra nhiều loại mà luận rộng lắm, từ cái bực thấp là cái tâm thịt, cho tới bực tối cao là cái tâm Chơn thiệt, ở vào khoảng giữa, không biết bao nhiêu cái tâm mà kể. Rộng lắm là trên 600 thứ Tâm, rộng vừa vừa là 100 thứ; còn hẹp lại là 4 thứ tâm. Đây nói nhiều thứ tâm, kỳ thiệt đó chỉ là các đức tánh của tâm mà thôi.
Sau nầy tôi xin kể sơ lược bốn thứ Tâm :
a) Tâm Nhục-đoàn (tâm thịt), b) Tâm Duyên-lự, c) Tâm tập-khởi, d) Tâm Chơn-thiệt.
a.- Tâm Nhục-đoàn.- Tức là tâm thịt vận huyết, như trên đã giải rồi.
b.- Tâm Duyên-lự.- Tức là cái tâm lo nghĩ, vì duyên với các cảnh ở ngoài.
Lo nghĩ không phải tự nó không không mà phát hiện. Như con mắt đối với sắc tướng, mới có cảm giác những màu mè tốt xấu, rồi cái tâm mới dựa theo cảm giác đó mà lo nghĩ, chọn lựa. Lỗ tai đối với tiếng tăm mới có cảm giác lời người ta nói ra thuận hay nghịch rồi cái tâm mới dựa theo cảm giác đó mà lo nghĩ, phiền muộn hay vui vẻ. Nói về miệng mủi, tay chơn, thì cũng thế.
Vậy thì cái tâm Duyên-lự không phải là thiệt có, chỉ do cái cảnh tiền trần cảm xúc mà phát sanh. Một khi tiền trần kia không còn nữa, thì cái tâm ấy cũng mất luôn.
Thế thì nó chỉ là cái bóng dáng của tiền trần hiện trong cái tâm đó thôi.
c.- Tâm tập-khởi.- Đây là chỉ cái tâm A-lại-da dồn chứa hột giống nơi trong, để sau nầy phát hiện hành các pháp ra ngoài.
Hột giống nói đây là hột giống vô hình, do sự tập quán mà có. Nhưng nó nảy nở phát sanh như hột giống hữu hình kia vậy.
Mỗi tư tưởng, mỗi việc làm bằng miệng hay là tay chơn đều có gieo giống trong cái tâm ta cả. Nếu sau nầy, ta còn tư tưởng và làm các việc làm đó nữa, thì hột giống càng thêm mạnh mẽ. Bởi cớ đó, ta thường làm một việc chi, thì việc ấy lâu ngày càng thấy dễ dàng mãi.
Cái tánh nầy cũng chẳng phải là tánh tự nhiên sẳn có. Nó nhờ thói quen, làm một việc chi nhiều lần mà thành, chớ kỳ thiệt không có thiệt thể. Nếu ta không làm các việc cũ đó nữa, thì lần lần nó cũng tiêu mòn, mất dạng.
d.- Tâm Chơn-thiệt.- Đức Phật nói : Các thứ tâm nói trước, tuy tồn tại một thời gian mà rồi cũng mất tích, chớ không phải luôn luôn tồn tại, vì các thứ tâm đó thuộc về sắc tướng, không đặng bền bĩ, nên gọi là huyển-hóa. Huyển-hóa nghĩa là : sanh diệt, vô thường.
Người tu hành cần phải tìm biết cái tâm Bổn-thể mà tu, mới mong chứng được quả vị cao siêu. Cái tâm Chơn-thiệt nầy bất sanh bất diệt, nên cũng gọi là thường-trụ Chơn-tâm. Lại cũng có nhiều tên khác nữa, là tâm : Chơn như, Bồ-đề, Viên-giác, Tánh-giác Diệu-minh, Bổn-giác minh diệu, Tự-tánh, Bổn-tánh, Như-lai tạng, Bạch-tịnh thức, A-đà-na thức, Viên-thành thật tánh.
Cái tâm Bổn-thể nầy, trong các kinh sách ít hay nói đến, hoặc là có nói, mà lời nói rải rác nhiều chỗ, không thống hệ rành rẽ, nên rất khó hiểu. Nay tôi xin bày giải vắn tắt sở kiến của tôi, gọi là giúp ích phần nào cho các bạn tu hành. Mỗi người còn cần phải gia công nghiên-cứu kỹ-lưỡng cái tâm Bổn- thể nói đây.
B.- LUẬN VỀ BỔN THỂ CỦA TÂM CHƠN THIỆT.
I.- Tổng luận
Trước hết, xin đừng lộn nghĩa chữ bổn thể với chữ thân thể. Hai chữ “thể ” nầy khác nhau như một trời, một vực. Chánh là chỗ nên nói : “Sai một li, đi một dặm”. Nghĩa là : Nếu ta hiểu sai một tí ti , là hiểu sai bét, trật lất.
Chữ thân thể như thân mình, tay chơn của ta đây, là vật chất (matière) có hình tướng, rờ được, nắm được. Vật-chất choán mất một phần không gian, hoặc lớn hoặc nhỏ, làm trở ngại cho các sự lưu thông. Lại hữu hình tắc hoại, nghĩa là : Sau một thời gian các vật chất đều phải hư hoại, mục nát, chớ không đặng vĩnh viễn.
Còn chữ Bổn-thể thuộc về tánh-chất, về tinh-thần (esprit) là nguồn cội sanh ra các thứ vật chất. Bổn thể không có hình tướng, cho nên đời đời tồn tại, không chịu ảnh hưởng của thời gian và không gian. Cho nên Đức Phật mới gọi là : “Kim-cang bất hoại thân”.
Vì cớ đó, ai đọc kinh sách của Tam-giáo là Phật, Thánh, Tiên, khi gặp chữ tâm, chữ thân thì phải cẩn thận tìm nghĩa chơn chánh của nó. Đừng lầm tưởng đâu cũng lấy nghĩa thân là thân thể, tâm là tâm thịt. Thành thử chữ tâm và chữ thân nói đây cũng đồng có một nghĩa mà thôi, đều là chỉ cái Bổn thể, cái Chơn-tâm cả.
Kế đây, xin phân biệt rõ ràng chữ thể và chữ dụng, hoặc nói tiếng đôi : bổn thể và công dụng. Nghĩa Bổn thể đã giải thích rồi, sau đây là tới nghĩa công dụng.
Chữ công là hiệu quả, dụng là hữu dụng. Công dụng nghĩa là : Hiệu quả hữu dụng.
Trước đã xét về Bổn thể, thì Bổn thể vô hình, vô tướng, dòm không thấy, lóng không nghe, cho nên trí phàm khó bề xét thấu (incognocible). Đã xét không thấu, thì nói ra sao được, nên gọi là bất khả tư nghì (ineffable). Có kẻ nói : Cái chi không xét thấu, không nói được, thì gác nó qua một bên, còn đem luận chi cho dông dài, vô ích.
Trả lời : Nói như vậy là đúng, tôi xin biểu đồng tình. Nhưng cái Bổn thể nói đây, tuy là vô hình, mà phát sanh ra nhiều công dụng ta có thể thấy biết được. Nếu ta xét các công dụng, mà phăng ngược về Bổn thể, thì ta cũng có thể biết được phần nào. Ấy là ta dùng cách suy lý để tìm hiểu. Đó cũng là một phương pháp rất khoa học, chớ chẳng phải đợi mắt thấy tai nghe, mới gọi là mình biết.
Tỉ như cái đèn phát ra ánh sáng, bốn bề xung quanh ta. Có khi cái đèn ở sau ót ta, ta không thấy được nó, mà ta thấy có ánh sáng xung quanh mình, thì chẳng cần đợi thấy cái đèn, ta cũng có thể đoán; Có một cái đèn, hay là một cái chi, cũng tựa như cái đèn, ở gần đâu đây, phát ra ánh sáng như vậy.
Cái tâm Bổn thể của ta cũng thế. Tuy ta không thấy hình dạng của nó, mà hằng ngày nó phát ra nhiều công dụng rõ rệt. Tỉ như nó có tình ưa ghét, phát sanh ra thất tình, lục dục, thì đối với người khác, ta không biết chắc gốc nó ở đâu sanh ra. Chớ xét lại trong thân thể ta, thì ta thấy trong lòng ta có cái chi nó nhao nhao lên, nó rộn rịp không yên. Đó không phải là một cái bằng cớ rằng ta có tâm sao ?
Huống chi chúng ta còn có những bực sáng suốt, nhờ tú khí của Trời đất un đúc, như các bực giáo chủ trong Tam giáo, đã bày giải cho ta biết rằng : Cái tâm ấy rất linh diệu, làm phàm, làm thánh, làm thú, làm chim, chi chi cũng là tự nó cả (Phi mao từng thử đắc, Tác phật giả do tha).Thế thì cái tâm ấy rất quan hệ với đời sống của ta, ta không tìm biết cái tâm ấy sao được ?
II.- BIỆT LUẬN
Bây giờ tôi xin nói về cái tâm Chơn-như, cái tâm Bổn-thể. Nhưng cái tâm nầy không có tướng, khó mà nói ra được. Đây tôi xin dẫn các lời dạy, mà tôi đặng biết, trong các kinh sách của Tam-giáo thuộc về vấn đề nầy.
Nho giáo gọi cái tâm Bổn thể là : Tánh-lý, Lương tri, Lương năng, Thiên mạng chi tánh, v.v. . . Tuy biết rằng cái tâm nầy gốc ở Trời, nhưng học giả chỉ luận về công dụng, chớ chưa nói đích xác về Bổn thể.
Đạo giáo gọi cái tâm Bổn-thể là : Đạo-tâm, Thiên-tâm, Huệ-mạng, Linh-quang hay là Kim-quang, v.v. . . , có dẫn giải trong bài Kim quang thần chú, mà người đạo Minh-Lý đọc hằng ngày.
Gốc mầu nhiệm trời đất } Đây là nói về sự mầu nhiệm sanh hóa của Kim-
Muôn khí do đây sinh } quang
. . . . . . . . . . . . .
Dòm thì không thấy tướng }
Lóng lại bặt âm thanh } Đây là nói về vô hình tướng của nó trải khắp,
Bao quát trọn trời đất } nuôi hết.
Dưỡng nuôi hết chúng sinh }
. . . . . . . . . . . .
Ba giới đều phò trợ }Đây là nói về sự oai linh, mà ai ai cũng cung
Năm vua phải tiếp nghinh } kỉnh,
. . . . . .. . . . .. .
Muôn thần đồng lễ kỉnh } nép sợ
Sử khiến các lôi đình }
v.v. . . . .
Lại có bài thơ của Thiệu-Nghiêu-phu như vầy :
Đông-chí tý chi bán,
Thiên-tâm vô cải di.
Nhứt dương sơ động xứ,
Vạn vật vị sanh thì.
Nghĩa nôm :
Đông-chí nửa giờ tý,
Thiên tâm mấy thuở dời.
Một dương vừa máy động,
Muôn vật lúc chưa sanh.
Trong mười hai địa chi, tý là ngôi đầu. Luận về năm, sau tháng Tuất, Hợi là lúc tính sang tiết Đông-chí là một hào dương khí động sanh, là lúc tháng tý. Thiên tâm chắc chắn ở tại đây, tuy chưa thấy lộ hình dáng của muôn vật, mà cái tâm ấy chánh là nguồn gốc sanh ra muôn vật đó.
Cái Thiên-tâm không có hình tướng yên lặng như tờ, thì chưa sanh ra cái chi được. Đến khi trong đó, có một hào dương khí động, thì nó mới phát sanh ra muôn vật.
Nói một cách khác, Đạo giáo nhận rằng :
1) Thiên tâm trước kia là nhứt khí hồn nhiên, gồm cả âm dương lộn lạo, gọi là Vô-cực.
2) Đến khi, một hào dương động sanh thì gọi là Thái-cực. Dương khí động rứt ra đứng riêng, thì tự nhiên phần còn lại là âm khí, nên gọi là Thái cực sanh lưỡng nghi. Lưỡng nghi tức là âm dương vậy.
3) Hai khí âm dương đã rời nhau, chừng tái hiệp lại kích thích lẫn nhau, mới thành một cái thể thứ ba, tức là khí xung-hòa, gọi là Hoàng-cực. Ngôi nầy là tổ khiếu phát sanh ra muôn vật.
Cho nên mới có bài thơ :
Đạo tự hư vô sanh nhứt khí,
Tiện tùng nhứt khí sản âm dương.
Âm dương tái hiệp thành tam thể,
Tam thể trùng sanh vạn vật trương.
Các đạo-hữu nghe các lời vừa dẫn giải đó, thì biết cái tâm nơi đây chẳng phải là tâm thường đâu !
Phật giáo.- Cách luận về cái tâm Bổn-thể của Phật giáo rất khúc chiết khó hiểu. Cho nên có nhiều người không chịu xét kỹ, hay vội phân đoán, thì không sao tránh khỏi chỗ lầm lạc.
Kinh Lăng-Nghiêm nói : “Tâm Như-Lai tạng bổng nhiên sanh ra sông núi, địa lục, các tướng hữu vi.”
Đại thừa khởi tín luận nói : Tâm chơn-như tức là nhứt pháp giái đại tổng tướng pháp môn thể, nghĩa là : Tâm chơn-như là gốc sanh hết thảy các hình tướng trong toàn cõi Võ-trụ.
Tóm hết ý tứ trong kinh điển nhà Phật, thì “vạn pháp vô thể thử kỳ thể. Vạn pháp hề tự, thử kỳ tự”. Nghĩa là : Muôn pháp không có gốc sanh, gốc sanh là nó đó (chỉ cái tâm Bổn-thể). Muôn pháp từ đâu sản xuất, sản xuất từ chỗ đó (cũng chỉ cái tâm Bổn-thể).
Nhưng Bổn-thể của Phật-giáo không có hình tướng, khác xa với Bổn thể của các khoa Triết-học, các phái ngoại đạo đề xướng. Bởi vì môn Triết học và ngoại đạo dầu có luận cao siêu cho mấy, cũng là Tục-đế, còn nằm trong vòng hữu hình. Phật giáo không nhìn nhận cái Bổn thể hữu hình đó, để phá cái chấp sai lầm kia nên bớt đi, chớ chẳng phải nói hẳn là không có Bổn-thể.
Bách luận có nói : “Nhứt thiết pháp tuy tự tánh không, dẫn vi tà tưởng phân biệt cố phược, vị phá thị điên đảo cố ngôn phá, thật vô sở phá”.Nghĩa là : Hết thảy các pháp tuy tự tánh là trống không nhưng vì chúng sanh đâm ra tư tưởng sai lầm, nên bị các tư tưởng trói buộc. Đây nói phá là phá chỗ đảo điên sai lầm kia chớ thiệt là không có gì phá cả.
Ví dụ có người quây tít một cây nhang đương cháy, thì ai cũng thấy một cái vòng tròn lửa đỏ. Tuy ai cũng thấy cái vòng tròn lửa đỏ, mà kẻ trí giả cho cái vòng tròn đó không phải thiệt có. Rồi có kẻ hiểu lầm cho là không có chi ráo, không không, thiệt là lầm lạc biết mấy !
Thế tục hay chấp có, Phật nói không phải có.
Hành giả hay chấp không, Phật nói không phải không.
Đó là chỉ bắt chỗ sai lầm, chớ không phải nói không có gì ráo. Nếu ai nhận không có gì ráo, thì kinh gọi là : “Vi ác thủ không”, nghĩa là : chấp không là ác, là tội lỗi.
KẾT LUẬN
Tu hành giải thoát là phải tìm cách khế hiệp với Bổn thể.
Để nêu cái tông chỉ vừa nói trên đó cho thiên hạ đặng biết, tôi có viết một đôi liển gắn nơi cửa ngỏ chùa Tam-Tông-Miếu như vầy :
Sắc tiền bất sắc, tâm phương tịch,
Không lý phi không, tánh thỉ tinh.
Đó là nói ngay vào cái tâm Bổn-thể của chúng sanh là bất sắc (tức là không) và phi không (tức là có), mà xin đừng chấp có, chấp không theo thế tục, mới là mong vào con đường trung đạo để hiệp với tâm Bổn-thể của Trời-đất.
Tam giáo đồng nguyên nghĩa là : cũng đồng dựa vào một cái gốc lớn nầy. Tam giáo in nhau cũng là giống nhau ở một chỗ đó.
Trước khi dứt bài giảng hôm nay, tôi xin thay mặt cho Bình-nghị-Thất, mà cầu nguyện Thượng-đế và Tam-giáo Tổ-sư ban ơn lành cho chư quí Ông chư quí Bà và các đạo hữu Nam Nữ.
Rất Lòng Thành Tín