

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
Ngày Rằm tháng 2 năm Ất Mùi ( 03-4-2015) CQPTGL đã ti63 chức lễ Kỷ niệm Khánh đản Đức Thái Thượng ĐạoTổ đồng hời Kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan (1965-2015).
Đại diện Các Hội thánh, các Thánh thất, Thánh tịnh, Tôn giáo bạn, Chính quyền địa phương, các đoàn thể đã đến dự đông đảo.
Nội dung cuộc lễ, Ban tổ chức đã báo cáo hoạt động hành đạo 50 năm của Cơ Quan và Thuyết đạo đề tài "Sống đời bình dị-Sống đạo tự nhiên".Ngoài ra Giáo sư Thương Văn Thanh (HT.Truyển Gáo), Linh mục Bảo Lộc (Ban Muc Vụ LiiênTôn) , Giáo sư Thượng Phong Thanh (Trưởng Ban Thư Kỳ Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh Cao Đài), Phó BanTôn Giáo TP.HCM đã phát biểu cảm tưởng rất nhiệt tình . . .
Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà tại Quận 2 TP.HCM cử hành Lễ kỷ nệm ngày thành lập lần thứ 81 vào ngày 24 tháng 6 Giáo Ngọ ( 20- 7-2014) trùng dụng Lễ Vía Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Đồng đạo các nơi về dự lễ rất đông đảo dưới sự chủ trì của Chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Ngày 19 - 6 - Giáp Ngọ, 15/7/2014 Cơ Quan PTGL đã cử hành lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Bồ Tát và Tổng kết hoạt động Phòng Khám Bệnh Phước Thiện. Các phái đoàn các Hội Thánh, Thánh thất Thánh tịnh và chính quyền đoàn thể đến dự rất đông đủ, trang nghiêm.
Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Cần Thơ tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô vào 12 và 13-3-Giáo Ngọ (11. 12. 4 . 2014)
Kính mời xem ảnh nơi Thư viện ảnh của NCGL
Ngày 17/3/2014 Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh & các Tổ chức Cao Đài đã khai mạc Hội nghị Liên Giao lần VII tại HT. Minh Chơn Đạo (Cà Mau) dồng thời tổ chức Hội thảo chủ đề " Vai trò nữ phái trong Đai Đạo TKPĐ)
Hội nghị có sự hiện diện của 16 đơn vị gồm các HT và các Tổ chức Cao Đài độc lập. Cuộc Hội thảo diễn ra ngày 18/3/2014, các phái đoàn Nữ phái các HT và các Tổ chức tham gia rất đông đảo với nhiều bài tham luận sâu sắc. Nhiều đại biểu Hội Phụ Nữ các tỉnh tham dự ủng hộ rất nhiệt tình.
Hội Nghị và Hội thảo được đánh giá là thành công tốt đẹp.
Kỷ niệm 40 năm thành lập, Họ đạo Trung Nghĩa tổ chức lễ Khánh thành Thánh thất vào ngày 20 tháng 11 năm Quý Tỵ (2013) tại huyện Châu Đức (Suối Nghệ) tỉnh Bà Rịa . (xem album Thư viện hình)

-
Từ Lâm Tự (còn gọi là chùa Gò Kén), tên đúng là Thiền Lâm Tự Căn cứ vào bản đồ ...
-
GIỚI KHẨU KINH (Trích Minh Thiện Chơn Kinh-Ngọc Linh Thánh Tịnh "Phụng Lầu" ấn tống năm Kỷ Hợi 1959) * * * . ...
-
Đề tài: Những chữ Tâm Huờn Cung Đàn,Tý thời 14 rạng Rằm tháng 5 Ất Tỵ (14-6-1965)
-
Vũ trụ bao la thiên hình vạn trạng, trước mắt chúng ta thấy được, là do sự cảm nhận; sự ...
-
Quán Tự Tại Bồ đề tát dã Lúc vào sâu Bác nhã Ba la, Không nhơn không pháp mới là Phát khai trí ...
-
TTO - Xuất hiện trong giới học thuật với những công trình đồ sộ về văn hóa phương Đông như: ...
-
"Cơ biến dịch vô cùng của Tạo Hóa không phút giây ngừng nghỉ, hết Đông Xuân lại, rồi Hạ đến ...
-
Cách đây 2005 năm, Chúa Giêsu đã giáng sinh trong thân phận làm người để mở con đường đưa con ...
-
Thời kỳ mạt pháp là thời kỳ được bắt đầu từ sau khi đức Phật nhập niết bàn 1500 năm, ...
-
"Hòa bình hay hiệp nhứt, Đức Thượng Đế đã ban cho mỗi con từ khi mới đến trần gian. Con ...
-
Đức Chí Tôn và các hàng Phật Tiên Thánh Thần đồng giáng thế bằng linh điển, diễn giải những bí ...
-
THANH NIÊN và THIÊN CƠ GIÁO ĐẠO Ngày kỷ niệm Khai Tịch Đạo năm Mậu Tuất 1958, Đức Lý Giáo Tông ...
Màu vàng, màu xanh, màu đỏ - ngọn cờ Đại Đạo Cao Đài.
Giữa bầu trời cao lộng gió, lá cờ tung bay, tung bay.
Màu vàng là màu Phật giáo.
Màu xanh là màu đạo Tiên,
Nhạc và lời: Võ Thành Văn (1985)
Tuổi xuân ơi, nhiệt huyết đang dâng trào,
vì ngày mai, hãy đứng bên nhau,
...
AUDIO GIỚI THIỆU NỀN TÂM TRUYỀN ĐĐTKPĐ
Trích quyển TÌM HIỂU TÔN GIÁO CAO ĐÀI, CQPTGL tái bản 2013
Giáo sĩ Huệ Ý phát âm
Thanh giao day ve xuan

CHƯƠNG THỨ NHẤT I . NGUYÊN LÝ NHẤT NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ CƠ CHẾ BIẾN SANH VŨ TRỤ. QUI LUẬT TIẾN HÓA TÂM LINH. II.NGUYÊN LÝ ĐẮC NHẤT. III.NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAMKỲ PHỔ ĐỘ A.TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHẤT B. PHỤNG HÀNH THIÊN ĐẠO

CHƯƠNG THỨ HAI NGUYÊN NHÂN ĐỨCTHƯỢNG ĐẾ KHAI ĐẠO TẠI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM PHÁP MÔN TAM CÔNG SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ MỤC ĐÍCH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÍNH DÂN TỘC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT

CHƯƠNG THỨ BA NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI ĐẠO TKPĐ ĐỨC TIN NGƯỜI CAO ĐÀ IIII.THIÊN NHÃN THƯỢNG ĐẾ HIỆN HŨUIVTHẦY LÀ BẢN THỂ CỦA CHÚNG SANH ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI TRONG SINH HOẠT TÔN GIÁO VIII.TIỀM LỰC SÂU THẲM VII . TỰ THẮP SÁNG HIỆN HỮU

Sử Đạo cho thấy Đức Tin Cao Đài, từ lúc chưa có đến lúc lập thành vững chắc nơi những người môn đệ đầu tiên là cả một biến chuyển trọng đại trong một thời gian ngắn ngủi để Khai minh Đại Đạo. Giai đoạn lịch sử ấy, trước hết xác minh sự hiện hữu của vũ trụ tâm linh. Nói đúng hơn, xác minh vũ trụ là một Càn Khôn thống nhất, một tổng thể của sự sống hữu hình lẫn vô hình. Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.

1. Đức Nhân Xã Hội Hóa Đức Nhân là giá trị nhân bản muôn thuở của con người từ nghìn xưa đến nghìn sau. Đức Nhân con người kỷ nguyên mới không phải chỉ là lòng trắc ẩn, lòng thương hai, là cái gì mình không muốn thì không làm cho người khác. Đức Nhân thời đại này là Đức Nhân Xã Hội Hóa, là thiện chí cải thiện con người, cải thiện xã hội để mỗi người đều có thể sống xứng đáng với cương vị làm người của mình.

Cất lên tiếng khóc chào đời, Mới hay hạt bụi thành người nhân gian. Biết xuân sinh, biết đông tàn, Làm người chỉ để cưu mang khóc cười . .

Cất lên tiếng khóc chào đời, Mới hay hạt bụi thành người nhân gian. Biết xuân sinh, biết đông tàn, Làm người chỉ để cưu mang khóc cười . .

NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (Sưu tầm từ quyển Sử Đạo Cao Đài, Quyển 1, Cơ Quan PTGLĐĐ xuất bản năm 2005) NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (Sưu tầm từ quyển Sử Đạo Cao Đài, Quyển 1, Cơ Quan PTGLĐĐ xuất bản năm 2005) 1. Ngài Ngô Văn Chiêu vào Đạo do lòng hiếu thảo đi cầu thuốc cho mẹ. Cuối năm 1917 (Đinh Tỵ) do thân mẫu lâm trọng bệnh, Ngài Ngô đến hầu đàn Hiệp Minh ở Cái Khế tỉnh Cần Thơ để cầu thuốc. Đến nơi thì đàn cơ đã lập , Ngài không dám đường đột vào, sợ làm náo động, nên đứng bên ngoài. Bỗng nhiên, Tiên gia gọi Ngài Ngô vào hầu, ban cho thân mẫu Ngài bài thuốc trị bệnh và riêng Ngài hai bài lục bát.

Vũ trụ luận Đại Đạo đề cập đến vũ trụ như một tổng thể bao gồm cc đối tượng khả nghiệm v siu nghiệm đối với khả năng nhận thức của con người (vũ trụ, như một tổng thể, thường được gọi l Cn Khơn thế giới, Thin Địa Cn Khơn, vũ trụ Cn Khơn,…) Vũ trụ luận Đại Đạo đưa ra cc quan niệm về nguồn gốc, sự vận động v biến hĩa, sự tiến hĩa của vũ trụ trong chiều hướng rt ra cc nguyn lý, cc quy luật chung của sự tồn tại v tiến hĩa của vũ trụ, nhất l cc nguyn lý v cc quy luật dẫn đạo cho sự tiến hĩa của con người đến tầm kích vũ trụ, tức l đưa con người từ vị thế hữu hạn trong khơng gian, thời gian vượt ln tới vị thế con người muơn thuở muơn phương.

TÂN PHÁP CAO ĐÀI 1 Tổng quan 2 Ý nghĩa Tân Pháp Cao Đài 2.1 Chính Đức Thượng Đế mở TânPháp Cao Đài 2.2 Chọn dân tộc Việt Nam để ban Tân Pháp Cao Đài 2.3 Tân Pháp Cao Đài giải tỏa lớp vô minh, mở con đường tiến hóa 2.4 Tân Pháp Cao Đài dụng thế thiên nhơn hợp nhất 2.5 Tân Pháp Cao Đài con đường quy Tam giáo hợp Ngũ chi 3 Phápmôn Tân Pháp Cao Đài 3.1 Tân Pháp Cao Đài là pháp môn Đại ân xá 3.2 Tân Pháp Cao Đài là pháp môn Tam Công 4 Kết luận

Ý NGHĨA NHỨT KỲ - NHỊ KỲ - TAM KỲ PHỔ ĐỘ Đây là một đề tài về tôn giáo vừa rộng vừa sâu; rộng suốt cả tiến trình lịch sử loài người và sâu, từ cuộc sống con người đến phần tâm linh, phần linh hồn của chúng ta. Nói cách khác, Tam Kỳ Phổ Độ là luận về đại cuộc độ dẫn của Ơn Trên giúp con người tiến hóa phần tâm linh, bên cạnh sự tiến bộ của văn minh vật chất, theo giáo lý đạo Cao Đài.

Đó cảm ứng từ bi trung thứ, Đây công bình nắm giữ nguyên nhân, Mở toang các cửa nơi trần, Khai Minh Đại Đạo độ lần chúng sinh. 31. Nay Trung Ương sắc huỳnh mồ kỷ, Rún năm châu bốn bể là đây, Cũng nơi vạn pháp phô bày, Tam tông qui lập Cao Đài chơn tông. ( Đức NGô Minh Chiêu - Ngoc Mkinh Đài-,Tuất thời, 01 - 3 Bính Ngũ (22-3-1966)

Neil Armstrong (sinh 5 tháng 8, 1930) là một phi hành gia người Mỹ, người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng ngày 20 tháng 7 năm 1969, trong chuyến du hành trên tàu Apollo 11 cùng Buzz Aldrin & Michael Collins.
Khi đặt chân xuống Mặt trăng, ông đã nói một câu bất hủ: "Đây là bước chân nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại".( That's one small step for [a] man, one giant leap for mankind")
Thật vậy ! Kể từ khi loài người còn sống hoang dã cách đây khoảng 10.000 năm cho đến ngày đặt chân lên mặt trăng, hành tinh cách địa cầu gần 400 ngàn km, quả là bước tiến khổng lồ !

Hằng ngày sinh họat đạo, đọc sách đạo, chúng ta thường gặp hai chữ "đại đồng", nhất là mục đích "Thế đạo đại đồng, thiên đạo giải thoát" của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đối với người tín hữu Cao Đài là thế, nhưng các tôn giáo khác, các triết gia, nhiều nhà tư tưởng cũng nêu quan điểm: " tất cả tôn giáo là một", "tất cả trở về Một", " thế giới đại đồng", "toàn cầu hóa". . .
Gặp nhiều, nói nhiều rồi có lúc chúng ta in trí đó là lẽ đương nhiên, hay hơn nữa, rất dễ dàng thực hiện. Nhưng trên thực tế, bắt đầu từ đâu để tìm ra manh mối của "đại đồng"?.
Cao Đài nhứt bổn
Từ khi con người có mặt trên địa cầu, điều mong muốn đầu tiên là sự sống, rồi cùng nhau bảo vệ sự sống đó. Lẽ sống là mục tiêu đơn giản và cấp thiết nhất của con người sơ khai mà tất cả đều cùng hướng đến như một phản xạ tự nhiên.
Do đó, con người sống thành quần thể để cùng chống chỏi với thiên nhiên. Trên đà phát triển, quần thể ngày một đông, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên ngày càng sâu sát và mở rộng. Con người bắt đầu phải đấu tranh trong cuộc sống xã hội hẳn còn đơn sơ, dục vọng và đau khổ bắt đầu nẩy mầm. Sự cố gắng khắc phục sức mạnh thiên nhiên vừa làm cho con người tiến bộ, vừa khiến con người cảm thấy nhỏ bé và yếu đuối giữa trời đất. Trong tiềm thức, con người cảm nhận có những quyền năng vô hình tạo ra sức mạnh thiên nhiên. Từ đó, \\\"xuất hiện\\\" đối tượng thứ ba con người phải hướng tới, đó là thần linh.

"XUÂN LÀ CẢNH THIÊN THỜI ĐỊA LỢI,
CÓ NHƠN HÒA XUÂN MỚI THÀNH XUÂN" (*)
Trong bốn mùa, Xuân được đón chào, ưu đải nhất, bởi vì Xuân hơn hẳn về thiên thời địa lợi.
Thiên thời của Xuân là sự khởi đầu thế vận một năm do lý tự nhiên của đất trời phát động đức Nguyên của đạo Kiền. Nguyên là công năng sanh hóa trong vũ trụ, nhờ đó mà trời trong gió mát, hoa cỏ xinh tươi, mùa màng sung túc; việc ấm no không còn tất bật. Nghỉ ngơi tay cuốc tay cày, người người rộn rã chuẩn bị cho lễ hội đầu Xuân. Vậy là thành địa lợi.
Nguyên lý của thiên đạo giải thoát
Bài thuyết minh giáo lý nội bộ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 09-05-2009 (15-04 Kỷ Sửu)

Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi?
Có phải do công cha nghĩa mẹ đã sanh thành và dưỡng dục tôi từng ngày?
Có phải tôi sống bởi vì tôi đang hít thở và tim tôi vẫn đang đập từng giây từng phút?
Có phải vì các tế bào trong cơ thể tôi đang được điều hòa họat động một cách rất hợp lý, chưa bị trục trặc gì đáng kể, nên tôi cũng được sống bình thường như bao con người khác?
Có phải do tình yêu thương của những người xung quanh tôi đã làm cho cuộc đời tôi trở nên sống động và đáng sống?
Có phải tôi sống bởi vì tôi còn có ích trên cõi đời này?

Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ngoặt rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với tiền đồ.

"Chữ tâm là chốn Cao Đài,
Không phân tả hữu là ngai Thượng Hoàng"
Quách Hiệp Long
Đó là lời dạy của đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngày 11–5–1970 Canh Tuất tại Trúc Lâm Thiền Điện.
"Chữ Tâm là chốn Cao Đài" có nghĩa là Thượng Đế ngự ở Nội Tâm mỗi chúng sinh.

Thời gian là dòng sông vĩnh cửu, nhưng nếu không có bốn mùa thì lấy chi để đánh dấu thời gian. Mỗi mùa có những sắc thái riêng, mà Xuân lại được ca ngợi đón chào nồng nhiệt nhất, thì Xuân càng vinh hạnh biết bao! Nên Xuân đến, Xuân đi, rồi Xuân lại về!
THÁNH GIÁO tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974)

Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn
-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.
Bài thuyết minh giáo lý của Giáo Sĩ Huệ Ý, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo.
Tháng 3-2007 (Đinh Hợi)

Tu hành giải thoát là phải tìm cách khế hiệp với Bổn thể.
Để nêu cái tông chỉ vừa nói trên đó cho thiên hạ đặng biết, tôi có viết một đôi liển gắn nơi cửa ngỏ chùa Tam-Tông-Miếu như vầy :
Sắc tiền bất sắc, tâm phương tịch,
Không lý phi không, tánh thỉ tinh.
Đó là nói ngay vào cái tâm Bổn-thể của chúng sanh là bất sắc (tức là không) và phi không (tức là có), mà xin đừng chấp có, chấp không theo thế tục, mới là mong vào con đường trung đạo để hiệp với tâm Bổn-thể của Trời-đất.
Tam giáo đồng nguyên nghĩa là : cũng đồng dựa vào một cái gốc lớn nầy. Tam giáo in nhau cũng là giống nhau ở một chỗ đó.

THƯỢNG trí NGỌC tâm hãy ráng giồi,
TRUNG kiên, LỊCH lãm đạo như đời,
NHỰT tăng NGUYỆT tụ tuần nhi tiến,
Giáng điển giải phân mối Đạo Trời.
THƯỢNG TRUNG NHỰT, NGỌC LỊCH NGUYỆT. Nhị Hiền Huynh chào mừng chư hiền đệ, chư hiền muội.
Nhị Hiền Huynh thừa sắc lịnh Tam Giáo Tòa và Đức Đông Phương Chưởng Quản, đại diện toàn thể các vị Tiền Bối Lưỡng Đài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, giáng cơ để trợ lực chư đệ muội trên bước đường hành đạo, củng cố Cơ Quan, để tiến hành cho kịp thời cơ vận chuyển của ĐạoTrời. Nhị Hiền Huynh mời toàn thể đệ muội an tọa.
Hiền đệ Tham Lý Minh Đạo hãy dâng bản Dự Án Quy Điều để kịp thời chỉnh đốn.
THÁNH THẤT BÌNH HÒA (Gia Định)
Ngọ thời Rằm tháng 8 Đinh Mùi (18-9-1967)
THỂ-LIÊN TIÊN-NỮ chào chư Thiên sắc, Chị mừng các em nam nữ. Chị vâng lịnh báo đàn, có VÔ-CỰC TỪ-TÔN DIÊU-TRÌ KIM-MẪU giáng cơ. Vậy các em nghiêm chỉnh đàn tràng, thành tâm tiếp giá. Chị chào các em, Chị xuất ngoại ứng hầu, thăng...

Những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa tríết học xuất phát từ sự phản tỉnh của tâm thức khao khát tìm kiếm lẽ thật của đời người đã dẫn dắt con người đi đến cảm nhận sâu sắc về nỗi cô đơn cũng như những bi kịch tất yếu của kiếp người để chấp nhận nó và hóa giải nó một cách “tùy duyên” bằng cái tâm trong sáng và an định. Mặt khác, những nỗi niềm nhân sinh mang ý nghĩa xã hội xuất phát từ sự phản tỉnh của tấm lòng lo đời thương dân đã mang đến cho con người trong thơ vẻ đẹp của sự quên mình và tận tụy. Nét đẹp nhân văn ấy phải chăng đã góp phần không nhỏ khẳng định nhân cách lớn lao của con người thời Đông A cũng như dấu ấn khó phai của một thời đại thơ ca một đi không trở lại.
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.

Bài nói chuyện tại Hội trường Thuyết minh giáo lý Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
ngày Rằm tháng 10 Canh Dần (20-11-2010).
Song song với lịch sử nhân loại, các tôn giáo lần lượt ra đời trên khắp thế giới do tín ngưỡng tự nhiên và đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người. Đối diện cuộc sống thực tế của thế gian trong những thời kỳ đen tối do chiến họa, thiên tai, thù hận, gây ra thống khổ cho nhân sanh, các bậc Giáo chủ động lòng từ bi, lập nên các giáo thuyết, truyền bá đạo lý hầu phục hồi lương tâm con người và chấn chỉnh kỹ cương xã hội.
Trước bao nhiêu nguy cơ đe dọa đời sống, con người đón nhận các tôn giáo như cứu tinh và suy tôn các Giáo chủ là Đấng cứu thế. Đó là lẽ đương nhiên, cũng là cơ hội để các tôn giáo cứu đời.
Tuy nhiên, với mặc cảm tội lỗi và tự ti trước thần quyền, người đời trở nên thụ động, tiêu cực, mãi lo cầu xin cứu độ mà vô tình đánh mất bản vị cao quí của mình trong trời đất. Thế nên, người tín hữu bình thường sẽ lẩn quẩn trong cái đạo nhất thời, không ý thức cái Đạo vĩnh cửu là con đường tiến hóa miên viễn của chúng sanh.