

Những liên kết dưới đây có thể hữu ích với bạn.
Ngày Rằm tháng 2 năm Ất Mùi ( 03-4-2015) CQPTGL đã ti63 chức lễ Kỷ niệm Khánh đản Đức Thái Thượng ĐạoTổ đồng hời Kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan (1965-2015).
Đại diện Các Hội thánh, các Thánh thất, Thánh tịnh, Tôn giáo bạn, Chính quyền địa phương, các đoàn thể đã đến dự đông đảo.
Nội dung cuộc lễ, Ban tổ chức đã báo cáo hoạt động hành đạo 50 năm của Cơ Quan và Thuyết đạo đề tài "Sống đời bình dị-Sống đạo tự nhiên".Ngoài ra Giáo sư Thương Văn Thanh (HT.Truyển Gáo), Linh mục Bảo Lộc (Ban Muc Vụ LiiênTôn) , Giáo sư Thượng Phong Thanh (Trưởng Ban Thư Kỳ Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh Cao Đài), Phó BanTôn Giáo TP.HCM đã phát biểu cảm tưởng rất nhiệt tình . . .
Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà tại Quận 2 TP.HCM cử hành Lễ kỷ nệm ngày thành lập lần thứ 81 vào ngày 24 tháng 6 Giáo Ngọ ( 20- 7-2014) trùng dụng Lễ Vía Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân. Đồng đạo các nơi về dự lễ rất đông đảo dưới sự chủ trì của Chức sắc lãnh đạo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên
Ngày 19 - 6 - Giáp Ngọ, 15/7/2014 Cơ Quan PTGL đã cử hành lễ Kỷ niệm ngày thành đạo của Đức Bồ Tát và Tổng kết hoạt động Phòng Khám Bệnh Phước Thiện. Các phái đoàn các Hội Thánh, Thánh thất Thánh tịnh và chính quyền đoàn thể đến dự rất đông đủ, trang nghiêm.
Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tại Cần Thơ tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm ngày qui thiên của Đức Ngô vào 12 và 13-3-Giáo Ngọ (11. 12. 4 . 2014)
Kính mời xem ảnh nơi Thư viện ảnh của NCGL
Ngày 17/3/2014 Tổ chức Liên Giao các Hội Thánh & các Tổ chức Cao Đài đã khai mạc Hội nghị Liên Giao lần VII tại HT. Minh Chơn Đạo (Cà Mau) dồng thời tổ chức Hội thảo chủ đề " Vai trò nữ phái trong Đai Đạo TKPĐ)
Hội nghị có sự hiện diện của 16 đơn vị gồm các HT và các Tổ chức Cao Đài độc lập. Cuộc Hội thảo diễn ra ngày 18/3/2014, các phái đoàn Nữ phái các HT và các Tổ chức tham gia rất đông đảo với nhiều bài tham luận sâu sắc. Nhiều đại biểu Hội Phụ Nữ các tỉnh tham dự ủng hộ rất nhiệt tình.
Hội Nghị và Hội thảo được đánh giá là thành công tốt đẹp.
Kỷ niệm 40 năm thành lập, Họ đạo Trung Nghĩa tổ chức lễ Khánh thành Thánh thất vào ngày 20 tháng 11 năm Quý Tỵ (2013) tại huyện Châu Đức (Suối Nghệ) tỉnh Bà Rịa . (xem album Thư viện hình)

-
VÔ thượng vô vi đạo thống truyền, CỰC hành vạn tượng hóa huyền thiên. TỪ tâm tận độ qui tam giới (13), TÔN ...
-
Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới trong những thập niên gần đây được tổ chức khoảng năm năm một lần, ...
-
Thánh giáo có viết: ““Thượng Đế đến khai minh Đại Đạo đã là một hi hữu, mà vấn đề hoát ...
-
Trong "Lịch trình hành đạo" của Đức Lê Đại tiên ban cho Cơ quan Phổ thông Giáo lý, nơi phần ...
-
Tu học trong nhà Đạo Kỳ Ba, cho dầu khác hội thánh, khác địa phương chúng ta đều được dạy ...
-
Chứng đạo hay đắc đạo được không đều do một chữ Tâm. Hành giả phải giữ tâm chuyên nhứt thanh ...
-
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam Tuất thời, 30 tháng Chạp Giáp Dần (10-02-1975) THI ĐÔ thành nhộn ...
-
Thi văn Đức Bồ Tát trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế Nhựt hoành nhị thập kiến giai thì Lục nhựt đạo thành ...
-
Đại Đạo TKPĐ khai mở chưa được một thế kỷ, thế mà khi lần giở những trang sử đạo người ...
-
Năm 1947, hai mươi năm sau khi bắt đầu tạo dựng Thánh Địa Tây Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm Công ...
-
Thế kỷ XVIII, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một cụm kiến trúc nghệ thuật tôn ...
-
CAO thượng bổn nguyên Đạo chí thành , ĐÀI tiền chực rước đám lương sanh. GIÁO minh chơn lý ...
AUDIO GIỚI THIỆU NỀN TÂM TRUYỀN ĐĐTKPĐ
Trích quyển TÌM HIỂU TÔN GIÁO CAO ĐÀI, CQPTGL tái bản 2013
Giáo sĩ Huệ Ý phát âm
Cảm tác đầu Xuân
FILE AUDIO do DIỆU HUYỀN & DIỆU NGUYÊN THỰC HIỆN
Nhạc và lời: Võ Thành Văn (1985)
Tuổi xuân ơi, nhiệt huyết đang dâng trào,
vì ngày mai, hãy đứng bên nhau,
...

CHƯƠNG THỨ NHẤT I . NGUYÊN LÝ NHẤT NGUYÊN CỦA VŨ TRỤ CƠ CHẾ BIẾN SANH VŨ TRỤ. QUI LUẬT TIẾN HÓA TÂM LINH. II.NGUYÊN LÝ ĐẮC NHẤT. III.NGUYÊN LÝ ĐẠI THỪA CỦA ĐẠO PHÁP ĐẠI ĐẠO TAMKỲ PHỔ ĐỘ A.TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHẤT B. PHỤNG HÀNH THIÊN ĐẠO

CHƯƠNG THỨ HAI NGUYÊN NHÂN ĐỨCTHƯỢNG ĐẾ KHAI ĐẠO TẠI ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM PHÁP MÔN TAM CÔNG SỨ MẠNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ MỤC ĐÍCH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ TÍNH DÂN TỘC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI THIÊN NHÂN HIỆP NHẤT

CHƯƠNG THỨ BA NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠI ĐẠO TKPĐ ĐỨC TIN NGƯỜI CAO ĐÀ IIII.THIÊN NHÃN THƯỢNG ĐẾ HIỆN HŨUIVTHẦY LÀ BẢN THỂ CỦA CHÚNG SANH ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI TÍN ĐỒ CAO ĐÀI TRONG SINH HOẠT TÔN GIÁO VIII.TIỀM LỰC SÂU THẲM VII . TỰ THẮP SÁNG HIỆN HỮU

Sử Đạo cho thấy Đức Tin Cao Đài, từ lúc chưa có đến lúc lập thành vững chắc nơi những người môn đệ đầu tiên là cả một biến chuyển trọng đại trong một thời gian ngắn ngủi để Khai minh Đại Đạo. Giai đoạn lịch sử ấy, trước hết xác minh sự hiện hữu của vũ trụ tâm linh. Nói đúng hơn, xác minh vũ trụ là một Càn Khôn thống nhất, một tổng thể của sự sống hữu hình lẫn vô hình. Đức tin Cao Đài xác minh vũ trụ tâm linh có những giai tầng tiếp diễn con đường tiến hóa của vạn hữu, mà sự thoát xác vĩnh viễn của con người là một chuyển biến thăng hoa siêu việt. Nếu tâm linh tại thế đã tiến hóa, chủ thể tâm linh xuất thế sẽ tiếp tục tiến hóa cao hơn.

1. Đức Nhân Xã Hội Hóa Đức Nhân là giá trị nhân bản muôn thuở của con người từ nghìn xưa đến nghìn sau. Đức Nhân con người kỷ nguyên mới không phải chỉ là lòng trắc ẩn, lòng thương hai, là cái gì mình không muốn thì không làm cho người khác. Đức Nhân thời đại này là Đức Nhân Xã Hội Hóa, là thiện chí cải thiện con người, cải thiện xã hội để mỗi người đều có thể sống xứng đáng với cương vị làm người của mình.

Cất lên tiếng khóc chào đời, Mới hay hạt bụi thành người nhân gian. Biết xuân sinh, biết đông tàn, Làm người chỉ để cưu mang khóc cười . .

Cất lên tiếng khóc chào đời, Mới hay hạt bụi thành người nhân gian. Biết xuân sinh, biết đông tàn, Làm người chỉ để cưu mang khóc cười . .

NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (Sưu tầm từ quyển Sử Đạo Cao Đài, Quyển 1, Cơ Quan PTGLĐĐ xuất bản năm 2005) NHỮNG DẤU ẤN NHÂN VĂN TRONG LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (Sưu tầm từ quyển Sử Đạo Cao Đài, Quyển 1, Cơ Quan PTGLĐĐ xuất bản năm 2005) 1. Ngài Ngô Văn Chiêu vào Đạo do lòng hiếu thảo đi cầu thuốc cho mẹ. Cuối năm 1917 (Đinh Tỵ) do thân mẫu lâm trọng bệnh, Ngài Ngô đến hầu đàn Hiệp Minh ở Cái Khế tỉnh Cần Thơ để cầu thuốc. Đến nơi thì đàn cơ đã lập , Ngài không dám đường đột vào, sợ làm náo động, nên đứng bên ngoài. Bỗng nhiên, Tiên gia gọi Ngài Ngô vào hầu, ban cho thân mẫu Ngài bài thuốc trị bệnh và riêng Ngài hai bài lục bát.

Vũ trụ luận Đại Đạo đề cập đến vũ trụ như một tổng thể bao gồm cc đối tượng khả nghiệm v siu nghiệm đối với khả năng nhận thức của con người (vũ trụ, như một tổng thể, thường được gọi l Cn Khơn thế giới, Thin Địa Cn Khơn, vũ trụ Cn Khơn,…) Vũ trụ luận Đại Đạo đưa ra cc quan niệm về nguồn gốc, sự vận động v biến hĩa, sự tiến hĩa của vũ trụ trong chiều hướng rt ra cc nguyn lý, cc quy luật chung của sự tồn tại v tiến hĩa của vũ trụ, nhất l cc nguyn lý v cc quy luật dẫn đạo cho sự tiến hĩa của con người đến tầm kích vũ trụ, tức l đưa con người từ vị thế hữu hạn trong khơng gian, thời gian vượt ln tới vị thế con người muơn thuở muơn phương.

TÂN PHÁP CAO ĐÀI 1 Tổng quan 2 Ý nghĩa Tân Pháp Cao Đài 2.1 Chính Đức Thượng Đế mở TânPháp Cao Đài 2.2 Chọn dân tộc Việt Nam để ban Tân Pháp Cao Đài 2.3 Tân Pháp Cao Đài giải tỏa lớp vô minh, mở con đường tiến hóa 2.4 Tân Pháp Cao Đài dụng thế thiên nhơn hợp nhất 2.5 Tân Pháp Cao Đài con đường quy Tam giáo hợp Ngũ chi 3 Phápmôn Tân Pháp Cao Đài 3.1 Tân Pháp Cao Đài là pháp môn Đại ân xá 3.2 Tân Pháp Cao Đài là pháp môn Tam Công 4 Kết luận

Ý NGHĨA NHỨT KỲ - NHỊ KỲ - TAM KỲ PHỔ ĐỘ Đây là một đề tài về tôn giáo vừa rộng vừa sâu; rộng suốt cả tiến trình lịch sử loài người và sâu, từ cuộc sống con người đến phần tâm linh, phần linh hồn của chúng ta. Nói cách khác, Tam Kỳ Phổ Độ là luận về đại cuộc độ dẫn của Ơn Trên giúp con người tiến hóa phần tâm linh, bên cạnh sự tiến bộ của văn minh vật chất, theo giáo lý đạo Cao Đài.

Đó cảm ứng từ bi trung thứ, Đây công bình nắm giữ nguyên nhân, Mở toang các cửa nơi trần, Khai Minh Đại Đạo độ lần chúng sinh. 31. Nay Trung Ương sắc huỳnh mồ kỷ, Rún năm châu bốn bể là đây, Cũng nơi vạn pháp phô bày, Tam tông qui lập Cao Đài chơn tông. ( Đức NGô Minh Chiêu - Ngoc Mkinh Đài-,Tuất thời, 01 - 3 Bính Ngũ (22-3-1966)

Nghiên cứu lịch sử hay nguồn gốc các tôn giáo, người ta thường phân lọai các tôn giáo về mặt đức tin nơi Thần Thánh thành ba lọai:
_ Tôn giáo đa thần (polytheism)
_ Tôn giáo độc thần (monotheism)
_ Tôn giáo phiếm thần (pantheism)
Cách đây hơn 80 năm, Đức Thượng Đế Cao Đài thâu nhận người đệ tử đầu tiên là Ngài Ngô Minh Chiêu vào năm 1921.Tam vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang làm lễ Vọng thiên cầu đạo đêm mùng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (16-12-1925), Đức Thượng Đế hạ ngọn linh cơ tại Việt Nam, tức là đã đặt viên gạch đầu tiên cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại thế gian này. Từ đó, tòa Cao Đài được thiết lập đồng thời được ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ. Sứ mạng phổ độ nhân sanh kỳ thứ ba này được mệnh danh là sứ mạng Đại Đạo do bởi đặc ân của Thượng Đế dành cho cơ cứu thế Hạ nguơn tức là cơ cứu độ sau cùng trước khi kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ.
THÁNH GIÁO tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974)
Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 14 tháng Giêng Kỷ Dậu (2/3/69) (Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý)
THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ, Tiểu Thánh chào chư Thiên mạng, chào chư liệt vị đàn tiền.Vâng lịnh ĐỨC QUAN ÂM NHƯ LAI Tiểu Thánh đến báo đàn. Chư liệt vị thành tâm nghinh tiếp, Tiểu Thánh chào chung, xin xuất ngoại ứng hầu, thăng.\.
Tiếp điển :
TAM thiên lục bá đạo bàng môn,
TRẤN TĨNH nhân gian thức mộng hồn;
OAI đức nếu người không chín chắn,
NGHIÊM trừng thiên luật khó bôn chôn.
QUAN thân tế chúng hà nhân sự.
ÂM điệu độ đời bậc Thế Tôn;
NHƯ thị ngã văn tùy chánh đạo,
LAI triều chiếu triệu nhập Thiên môn.
TAM TRẤN OAI NGHIÊM QUAN ÂM NHƯ LAI, Bần Đạo chào chư hiền đệ hiền muội.
Đầu năm Kỷ Dậu Bần Đạo đến trần gian để giúp chư hiền đệ muội một vài lý đạo để nhận thức vị trí của mình trong trời đất, ngõ hầu tăng tiến trên bước đường tu học chân chính để khỏi sa vào nẻo mê tín mà bị bàng môn tả đạo lôi kéo vào hố sâu vực thẳm không ngày trở lại cùng CHÍ TÔN TỪ PHỤ. Bần Đạo miễn lễ, đồng an tọa.

Nhìn lại cơ Đạo, từ sơ khai đến khi hình thành và phát triển sẽ ghi nhận được những bước ngoặt rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với tiền đồ.

Đôi khi tôi tự hỏi: điều gì đã làm nên sự sống của tôi?
Có phải do công cha nghĩa mẹ đã sanh thành và dưỡng dục tôi từng ngày?
Có phải tôi sống bởi vì tôi đang hít thở và tim tôi vẫn đang đập từng giây từng phút?
Có phải vì các tế bào trong cơ thể tôi đang được điều hòa họat động một cách rất hợp lý, chưa bị trục trặc gì đáng kể, nên tôi cũng được sống bình thường như bao con người khác?
Có phải do tình yêu thương của những người xung quanh tôi đã làm cho cuộc đời tôi trở nên sống động và đáng sống?
Có phải tôi sống bởi vì tôi còn có ích trên cõi đời này?
Nguyên lý của thiên đạo giải thoát
Bài thuyết minh giáo lý nội bộ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 09-05-2009 (15-04 Kỷ Sửu)

Thời gian là dòng sông vĩnh cửu, nhưng nếu không có bốn mùa thì lấy chi để đánh dấu thời gian. Mỗi mùa có những sắc thái riêng, mà Xuân lại được ca ngợi đón chào nồng nhiệt nhất, thì Xuân càng vinh hạnh biết bao! Nên Xuân đến, Xuân đi, rồi Xuân lại về!

Con Người Đại Đạo phải là một Nguyên nhân; đó là người đạt đến Thượng trí tức cái Chơn tri làm chủ mọi tri thức (hạ trí) và tình thức. Kế đến, Nguyên nhân ấy thọ bẩm tinh thần đắc nhất của tâm linh (thuộc cõi Bồ đề ) để sử dụng chơn tri của thượng trí mà thi hành sứ mạng.
Như thế bản chất của người thiên ân sứ mạng là bản chất Đại Đạo, là tình bác ái bao dung tất cả khiến người sứ mạng hành động vô tư, hiệp nhất được mọi đối tượng trên từng nấc thang tiến lên lý tưởng chân thiện mỹ của loài người. Chỉ có bản chất Đại Đạo mới hóa giải được mọi đổ vỡ phân ly hận thù trong lòng nhân thế gây ra biết bao sóng gió phủ phàng cho cuộc đời.
Ôn học lời dạy của Đức Lý Giáo Tông
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Tuất thời, 15-01 Giáp Dần (06-02-1974)

Trong nhiều Kinh sách Nho Giáo, từ Hoàng Cực đã được trân trọng nhắc đến. Hoàng Cực được xem như Vương đạo, chuẩn mực trị nước của những minh quân Trung Quốc thời xưa.

"Chữ tâm là chốn Cao Đài,
Không phân tả hữu là ngai Thượng Hoàng"
Quách Hiệp Long
Đó là lời dạy của đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngày 11–5–1970 Canh Tuất tại Trúc Lâm Thiền Điện.
"Chữ Tâm là chốn Cao Đài" có nghĩa là Thượng Đế ngự ở Nội Tâm mỗi chúng sinh.
"Bần Tăng muốn bảo với chư liệt vị đạo hữu như thế này: Các hình thức phô bày trong vạn hữu, các pháp biến hiện ở trần gian đều do nhân duyên của mỗi con người cấu tạo. Cảnh và tâm là hai mà một, một mà muôn ngàn duyên nghiệp chủng tử hằng sa. Thì giờ đã điểm đúng với Thiên cơ, tất cả mọi cái giả sẽ trở về với vạn vật để chi phối mà tạo nhân duyên, còn lại, nếu người giác ngộ ắt nhận thấy cái thực để nắm giữ và dưỡng nuôi cho trở thành một hột giống trên cõi tối thượng niết bàn hay vào nơi vô sinh bất diệt. Đó mới chính thực là Đạo, là quyền năng sở hữu của Tạo Hóa ban cho con người, và con người là một trong tam tài có thể huyền đồng thiên địa như Lão Tử, Thích Ca, v.v...
Bần Tăng luận có hơi dài dòng, vì Bần Tăng muốn cái chân giá trị của các hàng Thiên ân hướng đạo trong Đại Đạo phải được biểu lộ một cách xứng đáng, và chân giá trị của người tín đồ đạo hữu trong Đại Đạo được thực sự chứng minh ở chỗ giác ngộ phi thường giữa cõi đời đầy chông gai cạm bẫy."

Trong dân gian không biết tự bao giờ đã hình thành câu ca dao : “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” để nhắc nhở nhau ngày lễ tưởng niệm Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo ngày 20.8 âm lịch, và kỷ niệm Mẹ là Đức Liễu Hạnh Thánh Mẫu vào ngày 3.3.Âm lịch.
Hàng năm, lễ Vía Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tổ chức trang trọng tại tất cả những nơi nào có đền thờ Ngài, trải dài trên khắp đất nước Việt từ Bắc chí Nam nhưng đặc biệt nhất, tại Phủ Giầy, tên gọi vùng đất tương truyền là quê hương Ngài, lễ hội được tổ chức trọng thể kéo dài từ mồng 1 tháng 3 cho đến hết mồng 10 tháng 3 gọi là Hội Phủ Giầy hay Hội Thánh Mẫu Vân Hương. Đây là một trong những lễ hội nổi tiếng của cả nước. Hội mở linh đình nhộn nhịp thu hút một số lượng dân chúng đông đảo, nhất là dân ở mấy tỉnh Nam Định, Ninh Bình , Hà Nam, Thanh Hóa và Hà Nội. Phủ Giầy, là địa danh của vùng đất trong đó có quần thể kiến trúc gồm các đền, phủ và lăng mẫu thờ Mẫu Liễu thuộc xã Kim Thái, (trước là An Thái), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, là nơi mà trong phạm vi một xã có mật độ di tích dày đặc. Ngoài Phủ Tiên Hương còn gọi là Phủ Chính (xưa kia, nơi này được qui định làm địa điểm tổ chức lễ hội), Phủ Vân Cát (còn gọi là đền Trình bởi trước khi sang lễ ở Phủ Chính, phải vào lễ trình diện ở Phủ Vân) thờ Mẫu Liễu Hạnh và Lăng Mộ của Ngài còn có một số đền chùa khác. Danh xưng Vân Hương Thánh Mẫu do ghép hai tên Vân Cát và Tiên Hương.

THƯỢNG trí NGỌC tâm hãy ráng giồi,
TRUNG kiên, LỊCH lãm đạo như đời,
NHỰT tăng NGUYỆT tụ tuần nhi tiến,
Giáng điển giải phân mối Đạo Trời.
THƯỢNG TRUNG NHỰT, NGỌC LỊCH NGUYỆT. Nhị Hiền Huynh chào mừng chư hiền đệ, chư hiền muội.
Nhị Hiền Huynh thừa sắc lịnh Tam Giáo Tòa và Đức Đông Phương Chưởng Quản, đại diện toàn thể các vị Tiền Bối Lưỡng Đài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, giáng cơ để trợ lực chư đệ muội trên bước đường hành đạo, củng cố Cơ Quan, để tiến hành cho kịp thời cơ vận chuyển của ĐạoTrời. Nhị Hiền Huynh mời toàn thể đệ muội an tọa.
Hiền đệ Tham Lý Minh Đạo hãy dâng bản Dự Án Quy Điều để kịp thời chỉnh đốn.

Ngôi Vĩnh Nguyên Tự được xây cất vào năm Mậu Thân (1908) tại xã Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, nay là tỉnh Long An.
Ca dao Việt Nam có câu: “Tu đâu cho bằng
tu nhà; Thờ cha kính mẹ mới là chơn tu.”
Kinh Tứ Thập Nhị Chương có dạy: “…Cha mẹ
là vị Thần minh cao nhất trong các Thần minh.”
Kinh Đại Tập có đoạn chép: “ Gặp thời không
có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật.”
Qua đó, chúng ta thấy rằng đối với con cái, cha
mẹ phải được tôn kính như một vị Thần minh
cao nhất, vì cha mẹ không chỉ tạo cho con mảnh
hình hài mà còn nuôi dưỡng con thành người.
Cha mẹ là chiếc lá chắn an toàn che chở suốt đời
cho con. Do vậy, đạo làm con là phải giữ tròn chữ
hiếu. Con người thực hành được Hiếu đạo, chính
là tạo được công đức rất lớn.
Victor L. Oliver cho rằng đạo Cao Đài chịu ảnh hưởng của ba nền văn hóa: văn hóa Trung Quốc; văn hóa Ấn Độ, và văn hóa Pháp. Ông cũng không quên nói rằng sự ra đời của đạo Cao Đài còn do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. . . .